TỨ PHẦN LUẬT
BA-LA-DI
6. BÁT SỰ
A. DUYÊN KHỞI
Một thời, đức Thế tôn ở trong vườn Cấp-cô-độc, rừng cây Kỳ-đà tại nước Xá-vệ. Bấy giờ, trong thành Xá-vệ, có ông trưởng giả tên là Sa-lâu Lộc Lạc, tướng mạo đẹp đẽ. Tỳ-kheo-ni Thâu-la-nan-đà cũng có nhan sắc xinh đẹp. Trưởng giả Lộc Lạc để tâm nơi Thâu-la-nan-đà, Thâu-la-nan-đà cũng để tâm nơi Lộc Lạc.
Tỳ-kheo-ni Thâu-la-nan-đà, với dục tâm, bằng lòng để cho trưởng giả nắm tay, nắm áo, cùng vào chỗ vắng, cùng đứng, cùng nói, cùng đi, hai thân dựa nhau, cùng hẹn hò.
Các tỳ-kheo-ni nghe, trong số đó có vị thiểu dục tri túc, sống hạnh đầu-đà, ưa học giới, biết tàm quý, hiềm trách tỳ-kheo-ni Thâu-la-nan-đà: «Sao cô với dục tâm bằng lòng để cho trưởng giả nắm tay, nắm áo, cùng vào chỗ vắng, cùng đứng, cùng nói, cùng đi, hai thân dựa nhau, cùng hẹn hò?»
Các tỳ-kheo-ni bạch với các tỳ-kheo. Các tỳ-kheo đến bạch đức Thế tôn. Đức Thế tôn vì nhơn duyên này tập hợp các Tăng tỳ-kheo, quở trách Thâu-la-nan-đà:
«Việc cô làm là sai quấy, chẳng phải oai nghi, chẳng phải pháp sa-môn, chẳng phải tịnh hạnh, chẳng phải hạnh tùy thuận, làm điều không nên làm. Tỳ-kheo-ni Thâu-la-nan-đà, sao cô với dục tâm bằng lòng để cho trưởng giả nắm tay, nắm áo, cùng vào chỗ vắng, cùng đứng, cùng nói, cùng đi, hai thân dựa nhau, cùng hẹn hò?»
Đức Thế tôn dùng vô số phương tiện quở trách Thâu-la nan-đà rồi bảo các tỳ-kheo:
«Thâu-la-nan-đà này là nơi trồng nhiều giống hữu lậu, là người đầu tiên phạm giới này. Từ nay về sau, Ta vì các Tỳ-kheo-ni kiết giới, gốm mười cú nghĩa, cho đến câu chánh pháp cửu trụ.»
Muốn nói giới nên nói như vầy:
Tỳ-kheo-ni nào, với tâm nhiễm ô, biết người nam có tâm nhiễm ô, bằng lòng để cho nắm tay nắm áo, vào chỗ vắng, cùng đứng, cùng nói, cùng đi, thân dựa kề nhau, hẹn nhau. Tỳ-kheo-ni ấy là kẻ ba-la-di, không được sống chung. Vì phạm tám sự vậy.
B. GIỚI TƯỚNG
Tỳ-kheo-ni: nghĩa như trên.
Tâm nhiễm ô: tâm có nhiễm trước.
Người nam có tâm nhiễm ô, cũng có nhiễm trước.
Nắm tay: nắm bàn tay cho đến cổ tay.
Nắm áo: nắm lấy áo trên thân.
Vào chỗ vắng: xa chỗ không người thấy không nghe.
Cùng đứng chỗ vắng: đứng chỗ không người thấy, không nghe.
Cùng nói: cũng ở chỗ không người thấy không nghe.
Cùng đi: cũng ở chỗ không người thấy nghe.
Thân dựa nhau: thân này nương vào thân kia.
Hẹn nhau: hẹn đến chỗ có thể hành dâm.
Tỳ-kheo-ni với tâm nhiễm ô bằng lòng cho nam tử có tâm nhiễm ô nắm tay, phạm thâu-lan-giá. Nắm áo, thâu-lan-giá. Vào chỗ vắng cùng đứng, chỗ vắng cùng nói, chỗ vắng cùng đi, lấy đó làm sự vui thích, để thân nương dựa nhau. Mỗi mỗi đều phạm thâu-lan-giá.
Phạm trong bảy sự này, nếu không phát lồ sám hối, tội chưa trừ, mà phạm đến việc thứ tám thì phạm ba-la-di.
Với con của trời, con của rồng, con của a-tu-la, con của dạ-xoa, ngạ quỷ, súc sanh có thể biến hình, phạm bảy sự, mỗi mỗi đều đột-kiết-la; phạm đến sự thứ tám thì thâu-lan-giá. Với súc sanh không thể biến hình, phạm đến việc thứ tám, đột-kiết-la.
Cùng người nữ có tâm nhiễm ô, phạm việc thứ tám, đột-kiết-la.
Tỳ-kheo, tuỳ theo chỗ giới. Thức-xoa-ma-na, sa-di, sa-di-ni, đột-kiết-la. Đó gọi là phạm.
Sự không phạm: nếu khi có cái cần trao hay nhận, khi ấy tay chạm nhau; hoặc vui giỡn. Hoặc để giải cứu nên phải nắm áo. Hoặc có sự dâng cúng, hoặc lễ bái, hoặc sám hối, hoặc thọ pháp vào chỗ vắng cùng chung một chỗ. Hoặc có sự dâng cúng, hoặc lễ bái, hoặc sám hối, hoặc thọ pháp vào chỗ vắng cùng đứng. Hoặc có sự dâng cúng, hoặc lễ bái, hoặc sám hối, hoặc thọ pháp, vào chỗ vắng cùng nói. Hoặc có sự dâng cúng, hoặc lễ bái, hoặc sám hối, hoặc thọ pháp, vào chỗ vắng cùng đi. Hoặc bị người đánh; hoặc có giặc đến; hoặc có voi đến, ác thú đến; hay gặp phải gai nhọn, nên xoay mình để tránh; hoặc đến cầu giáo thọ, hoặc nghe pháp, hoặc thọ thỉnh, hoặc đến trong chùa; hoặc cùng hẹn nơi không thể làm việc ác. Tất cả đều không phạm.
Người không phạm: người phạm lần đầu tiên khi chưa chế giới; người si cuồng, loạn tâm, thống não bức bách.