LUẬT MA HA TĂNG KỲ
GIỚI BA-DẠ-ĐỀ
NÓI RÕ PHẦN THỨ NHẤT CỦA CHÍN MƯƠI HAI PHÁP ĐƠN ĐỀ
3. Giới: nói để ly gián kẻ khác.
Khi Phật an trú tại thành Xá Vệ, nói rộng như trên. Bấy giờ nhóm 6 Tỉ-kheo tìm cách dụ dỗ hỏi các Tỉ-kheo tuổi trẻ: “Ngươi có biết nghề nghiệp, dòng dõi của cha mẹ Tỉ-kheo mỗ giáp kia không?”
Các Tỉ-kheo trẻ tuổi ấy tính tình chất trực, tùy việc mà đáp. Về sau, khi nổi giận, nhóm 6 Tỉ-kheo liền nói: “Ngươi là Chiên-đà-la, là thợ hớt tóc, là thợ dệt, thợ đồ gốm, thợ làm da”.
Nói thế rồi, lại bảo: “Ta vốn không biết mà do Tỉ-kheo mỗ giáp kia nói về ngươi như vậy”.
Tỉ-kheo nghe lời nói ấy, rất lấy làm xấu hổ. Các Tỉ-kheo liền đem sự việc ấy đến bạch lên Thế Tôn. Phật bảo gọi nhóm 6 Tỉ-kheo đến. Khi họ đến rồi, Phật liền hỏi: “Có thật các ông dụ dỗ hỏi các Tỉ-kheo trẻ tuổi (cho đến) Tỉ-kheo kia xấu hổ không?”
Họ đáp: “Có thật như vậy, bạch Thế Tôn”.
—“Vì sao các ông lại làm như vậy?”
—Chúng con làm việc đó vì thấy thích thú.
—Này những kẻ ngu si! Đó là việc xấu, đối với bậc phạm hạnh mà nói 2 lưỡi. Đấy là việc khổ mà bảo là vui.
Phật dùng vô số phương tiện khiển trách rồi, bèn nói về nhân duyên, như trong kinh Bản-sinh 3 con thú đã nói rõ. Thế rồi, Phật truyền lệnh cho các Tỉ-kheo sống tại thành Xá Vệ phải tập họp lại tất cả, vì 10 lợi ích mà chế giới cho các Tỉ-kheo, dù ai nghe rồi cũng phải nghe lại:
“Nếu Tỉ-kheo nói 2 lưỡi, thì phạm Ba-dạ-đề”.
Giải thích
—Nói 2 lưỡi: Gồm có 7 loại, đó là chủng tánh, nghề nghiệp, tướng mạo, bệnh, tội, mắng, kiết sử.
1. Chủng tánh: Gồm có hạ, trung, thượng.
—Bậc hạ: Như nói: “Ngươi là Chiên-đà-la, (cho đến) là thợ làm da”lại nói: “Ai có biết ngươi đâu, chính là mỗ giáp kia nói đó”, với suy nghĩ là mong kẻ ấy lìa bỏ người kia và thân thiện với mình. Dù họ rời nhau, hoặc không rời nhau đều phạm Ba-dạ-đề. Nếu nói: “Cha mẹ của ngươi là Chiên-đà-la, (cho đến) là thợ làm da”. Lại nói: “Ai có biết ngươi đâu, chính là do Tỉ-kheo mỗ giáp kia nói đó”, với suy nghĩ là mong kẻ ấy rời bỏ người kia để thân thiện với mình. Nếu họ rời nhau hay không rời nhau đều phạm Ba-dạ-đề. Nếu nói: “Hòa thượng,, A-xà-lê của ngươi là Chiên-đà-la (cho đến) là thợ làm da”, cũng phạm Ba-dạ-đề. Nói về bạn hữu tri thức, cũng như vậy. Đó gọi là bậc hạ.
—Bậc trung: Chẳng hạn nói: “Trưởng lão, Ngài thuộc dòng dõi trung lưu, thuộc dòng dõi binh sĩ, dòng dõi ca kỹ”, rồi bảo: “Tôi đâu có biết ông, chính là do mỗ giáp kia nói đó”, với suy nghĩ là muốn cho người này lìa bỏ người kia, để trở về với mình. Dù họ chia lìa nhau hay không chia lìa đều phạm Ba-dạ-đề. Nếu nói về cha mẹ, Hoà thượng, A-xà-lê, bạn hữu tri thức, đều phạm Ba-dạ-đề. Đó gọi là bậc trung.
—Bậc thượng: Nếu nói: “Trưởng lão, Ngài là dòng dõi Sát-lợi, Bà-la-môn”. Lại nói: “Tôi đâu có biết thầy, đó là do mỗ giáp kia nói”, với suy nghĩ là muốn cho người ấy bỏ người kia để về với mình. Dù họ lìa nhau hay không lìa nhau, đều phạm Ba-dạ-đề. Nếu nói về cha mẹ, Hòa thượng, A-xà-lê, bạn hữu tri thức, cũng đều phạm Ba-dạ-đề. Đó gọi là bậc thượng thuộc về chủng tánh.
2. Nghề nghiệp: Gồm có hạ, trung, thượng.
—Bậc hạ: Chẳng hạn nói: “Ngươi làm nghề đồ tể, (cho đến), làm nghề bán nem”, rồi bảo: “Tôi đâu có biết ông mà do mỗ giáp kia nói”. Nói như vậy với mong muốn người này lìa bỏ người kia, trở về với mình. Dù họ lìa nhau hay không lìa nhau, đều phạm Ba-dạ-đề. Nếu nói về cha mẹ, Hòa thượng, A-xà-lê, bạn hữu tri thức, cũng đều phạm Ba-dạ-đề. Đó gọi là bậc hạ.
—Bậc trung: Chẳng hạn nói: “Ngươi là kẻ bán hương, là người buôn bán, (cho đến) là người đưa tin”, rồi bảo: “Tôi đâu có biết ông, mà do mỗ giáp kia nói”. Nói như vậy với hy vọng người này lìa bỏ người kia, trở về với mình. Dù họ có lìa nhau hay không lìa nhau, đều phạm Ba-dạ-đề. Nếu nói về cha mẹ, Hoà thượng, A-xà-lê, bạn hữu tri thức, đều phạm Ba-dạ-đề. Đó gọi là bậc trung.
—Bậc thượng: Chẳng hạn nói: “Ngươi ở cửa hàng vàng, bạc, (cho đến) ở cửa hàng đồ đồng”, lại bảo: “Tôi đâu có biết ông mà do mỗ giáp kia nói”. Nói như vậy với hy vọng người này lìa bỏ người kia, trở về với mình. Dù họ lìa nhau hay không lìa nhau, đều phạm Ba-dạ-đề. Nếu nói về cha mẹ, Hòa thượng, A-xà-lê, bạn hữu tri thức, cũng đều phạm Ba-dạ-đề. Đó gọi là bậc thượng thuộc về nghề nghiệp.
3. Tướng mạo: Gồm có hạ, trung, thượng—Bậc hạ:: Nếu nói: “Ông là kẻ mù lòa (cho đến) là kẻ răng khểnh”, rồi bảo: “Tôi đâu có biết ông mà do mỗ giáp kia nói”. Nói như vậy, với hy vọng người này lìa bỏ người kia, trở về với mình. Dù họ có lìa bỏ nhau hay không, đều phạm Ba-dạ-đề. Đó gọi là bậc hạ.
—Bậc trung: Nếu nói: “Ông rất đen, rất trắng, rất vàng, rất đỏ”, rồi bảo: “Tôi đâu có biết ông, mà do mỗ giáp kia nói”. Nói như vậy với hy vọng người này lìa bỏ người kia hướng về với mình. Dù họ có lìa bỏ nhau hay không, đều phạm Ba-dạ-đề. Nói về cha mẹ, Hòa thượng,, A-xà-lê, bạn hữu quen biết, đều phạm Ba-dạ-đề. Đó là bậc trung.
—Bậc thượng: Chẳng hạn nói: “Ông có 32 tướng viên mãn, sáng rỡ sắc vàng”, rồi bảo: “Tôi đâu có biết ông, mà do mỗ giáp kia nói”. Nói như vậy với hy vọng người này lìa bỏ người kia hướng về mình. Dù họ có lìa bỏ nhau hay không, đều phạm Ba-dạ-đề. Nói về cha mẹ, Hòa thượng, A-xà-lê, bạn hữu tri thức, đều phạm Ba-dạ-đề. Đó gọi là bậc thượng thuộc về tướng mạo.
4 —Bệnh: Không có hạ, trung, thượng mà tất cả bệnh đều là hạ. Chẳng hạn nói: “Ông bị ghẻ lở, (cho đến) bị điên cuồng”, rồi bảo: “Tôi đâu có biết ông, mà do mỗ giáp kia nói”. Nói như vậy với hy vọng người này lìa bỏ người kia, hướng về với mình. Dù họ có lìa bỏ nhau hay không, đều phạm Ba-dạ-đề. Nếu nói về cha mẹ, Hòa thượng, A-xà-lê, bạn hữu tri thức, cũng đều phạm Ba-dạ-đề. Đó gọi là bệnh.
5. Tội: Không có hạ, trung, thượng mà tất cả tội đều thuộc về hạ. Chẳng hạn nói: “Ông phạm Ba-la-di, (cho đến) phạm tội Việt-tì-ni”, rồi bảo: “Tôi đâu có biết ông mà do mỗ giáp kia nói”. Nói như vậy với hy vọng người này lìa bỏ người kia, trở về với mình. Dù họ có lìa bỏ nhau hay không, đều phạm Ba-dạ-đề. Nếu nói về cha mẹ, Hòa thượng, A-xà-lê, bạn hũu tri thức, cũng đều phạm Ba-dạ-đề.
6. Mắng: Không có hạ, trung, thượng mà tất cả sự mắng đều gọi là hạ. Nếu mắng nhiếc những lời ác độc theo kiểu thế gian, như: “Dâm dục, ô uế, xấu xa”, thì dù họ có lìa nhau hay không, đều phạm Ba-dạ-đề. Nếu mắng cha mẹ, Hòa thượng, A-xà-lê, bạn hữu tri thức của người ấy, đều phạm Ba-dạ-đề. Đó gọi là mắng.
7. Kiết sư û: Không có hạ, trung, thượng, mà tất cả kiết sử đều gọi là hạ. Chẳng hạn nói: “Ngươi là kẻ ngu si, ám độn, vô tri, giống như cục đất, như con dê, như ngỗng trắng, như chim cú”, nói những lời như vậy, rồi bảo: “Tôi đâu có biết ngươi mà do mỗ giáp kia nói đó”. Nói như vậy với hy vọng người này lìa bỏ người kia, hướng về với mình. Dù họ có lìa bỏ nhau hay không, đều phạm Ba-dạ-đề. Nếu nói về cha mẹ, Hòa thượng, A-xà-lê, bạn hữu tri thức, cũng đều phạm Ba-dạ-đề. Đó gọi là kiết sử.
Nếu nói 2 lưỡi đối với Tỉ-kheo, thì phạm Ba-dạ-đề; nói 2 lưỡi đối với Tỉ-kheo-ni, phạm tội Thâu-lan-giá; đối với Thức-xoa-ma-ni, Sa-di, Sa-di-ni, phạm tội Việt-tì-ni; đối với người thế tục, phạm tội Việt-tì-ni tâm niệm sám hối. Thế nên nói (như trên).