LUẬT MA HA TĂNG KỲ
GIỚI BA-DẠ-ĐỀ
NÓI RÕ phần thứ tư của CHÍN MƯƠI HAI PHÁP ĐƠN ĐỀ.
30. Giới: ăn Thức ăn Do Ni Ca Ngợi.
Khi Phật an trú tại Thành Xá Vệ, nói rộng như trên, bấy giờ có đàn việt ban đêm đến mời các tôn giả Xá-Lợi-Phất, Đại Mục Kiền Liên, Ly Bà Đa, Kiếp Tân Na, A Nhã Kiều Trần Như.v.v., chỉ có tôn giả Đại Ca Diếp vì không cho mời ban đêm, nên sáng sớm đến giờ khất thực bèn khoác y, cầm bát vào xóm làng tuần tự khất thực. Khi tôn giả đi đến cửa gia đình ấy, bà chủ nhà trông thấy rất hoan hỷ, liền bước đến cúi đầu đảnh lễ dưới chân tôn giả, rồi đứng qua một bên, bạch rằng: “Các đại đức nhận lời mời của gia đình con nên hôm nay tập trung về đây, kính xin tôn giả cũng nhận lời mời của con”.
Khi ấy tôn giả Ca-Diếp liền suy nghĩ: “Đây là gặp trực tiếp”, bèn nhận lời mời, rồi vào trong nhà ngồi, không đi đâu nữa. Bấy giờ, Tỷ kheo ni Thâu La Nan Đà khất thực ngang qua nhà ấy, trông thấy bà chủ nhà đang quét tước, soạn chén bát và các phẩm vật cúng dường, liền hỏi: “Ưu bà di, bà đang làm gì đấy?”.
Lúc ấy bà chủ nhà vì bận rộn các công việc nên không trả lời, đến nỗi cô hỏi đến lần thứ hai, thứ ba bà vẫn không đáp. Thâu La Nan Đà liền lên tiếng: “Nay bà thật là tự kiêu quá lắm, tôi hỏi mấy lần mà vẫn không đáp”.
Bà chủ liền trả lời: “Hôm nay tôi mời các đại đức Thanh Văn Xá-Lợi-Phất, Mục-Kiền-Liên.v.v., vì công việc túi bụi nên không thể trả lời”.
Thâu-La-Nan-Đà liền nói: “Những người bà chọn hôm nay, trong đàn voi không chọn những con voi lớn mà chọn những con voi nhỏ, trong đàn chim không chọn các con công mà chọn các con quạ già. Các con voi lớn đó là: Xiển-Đà, Ca-Lưu-Đà-Di, Tam-Văn-Đà-Đạt-Đa, Ma-Sẩn-Sa-Đạt-Đa, Mã-Sư, Mãn-Túc và thị giả A-Nan. Nếu bà nhờ tôi mời thì tôi sẽ mời giúp bà những đại đức như thế đó”.
Lúc ấy tôn giả Đại-Ca-Diếp đang ngồi trong nhà liền lên giọng đằng hắng. Thâu-La-Nan-Đà nghe tiếng liền hỏi bà chủ: “Đó là tiếng của ai vậy?”.
Bà chủ nhà đáp: “Đó là trưởng lão Đại-Ca-Diếp đấy”.
Tỷ kheo ni liền tán thán: “Bà được lợi ích rất lớn, vì đã mời được bậc đại long tượng như vậy, nếu tôi mời thì cũng sẽ mời trưởng lão ấy”.
Tôn giả Ca Diếp nghe lời nói ấy rồi lòng không vui, liền hỏi cô: “Này cô em, vừa rồi cô bảo đó là hạng voi nhỏ, quạ già, giờ sao nói long tượng đại đức? Nếu lời nói trước là chân thực, thì lời nói sau là hư dối. Nếu lời nói sau là chân thực thì lời nói trước là hư dối. Trong hai lời nói ấy lời nói nào trung thực?”
Vì Tôn giả Đại Ca Diếp có uy đức đáng tôn kính, dùng hai câu hỏi cật vấn khiển trách Tỷ kheo Ni, khiến cô hoảng sợ liền bỏ chạy, vấp ngã trên đất làm cho thân thể bị thương tích. Xiển Đà thấy vậy liền hỏi cô: “Cô xúc phạm ai mà đến nỗi thân thể bị thương tích như vậy?”.
—Con xúc phạm Đại Ca Diếp.
—Cô đã xúc phạm người không đáng xúc phạm.
Các Tỷ kheo nghe thế bèn đem sự kiện ấy đến bạch với Thế Tôn. Phật liền nói với các Tỷ kheo: “Trong trường hợp này không tán thán cũng đã có lỗi huống gì lại tán thán. Từ nay về sau ta không cho phép Tỷ kheo nhận thức ăn do Tỷ kheo ni tán thán mà được cúng dường.
Do thế, tôn giả A-Nan nỗi tiếng phước đức tại thành Xá Vệ. Lại được Thế Tôn khen ngợi thầy có ba sự đầy đủ: Tên họ bà con thành tựu, là bậc đa văn đệ nhất trong hàng hữu học và là thị giả chu đáo đệ nhất. Vì vậy mà tại thành Xá Vệ có thôn Phước đức, hễ ai trong thôn này làm nhà mới đều mời A-Nan, hoặc lúc xông đất, hoặc lúc cạo đầu, lúc xỏ lỗ tai, tất cả đều mời A-Nan.
Khi ấy có một trưởng giả mời A-Nan đến nhà dự lễ khánh thành. Thế nào là khánh thành? Chẳng hạng khánh thành nhà mới, giường mới, dụng cụ mới, mới khép dầu, đàn bà mới sinh con, mặc áo mới, dùng quạt mới.
Khi A-Nan thọ trai có một Tỷ kheo khất thực đứng ở ngoài cửa. A-Nan liền bảo đàn việt cúng dường thức ăn cho Tỷ kheo khất thực. Đàn việt nghe A-Nan dạy rất hoan hỷ, bèn lấy bát bỏ đày thức ăn mĩ vị đem ra cúng dường Tỷ kheo khất thực. Tỷ kheo khất thực nhận thức ăn xong liền đứng đợi A-Nan. A-Nan ăn xong chú nguyện rồi bước ra. Tỷ kheo khất thực thấy A-nan liền hỏi: “Tôn giả ăn chưa?”.
—Ăn rồi.
—Ăn có ngon không?
—Vì sao thầy không ăn mà hỏi tôi ăn có ngon hay không ngon?
—Sở dĩ tôn giả được ăn như thế này là do Tỷ kheo ni tán thán.
—Thật như vậy sao?
—Đúng như vậy.
A-nan liền lấy lông chim ngoáy vào cổ cho mửa ra. Thế nên ngày đó thầy bị mất ăn khiến cho thân thể bị tiều tụy, thầy bèn đi đến chỗ Phật, cúi đầu đảnh lễ chân Phật, rồi đứng hầu một bên. Phật biết mà vẫn hỏi: “A-Nan, vì sao thân thể ông tiều tụy như thế?”.
A-Nan liền đem sự kiện trên bạch đầy đủ lên Thế Tôn.
Phật bèn hỏi: “Ông có biết việc ấy không?”.
—Bạch Thế Tôn, con không biết.
—Biết mới có tội, không biết thì không có tội.
Các Tỷ kheo liền bạch với Phật: “Bạch Thế Tôn! Vì sao Tỷ kheo khất thực kia làm cho A-Nan không vui?”
—Không những ngày nay ông ta làm cho A-Nan không vui mà ngày xưa cũng đã từng làm, như trong Kinh Hiền Điểu Sinh đã nói rõ.
Lại nữa, khi Phật an trú tại thành Xá Vệ, đến giờ khất thực, các trưởng lão Tỷ kheo khoác y, cầm bát vào thành tuần tự khất thực, đi đứng cử động có hàng ngũ có uy nghi. Khi ấy có một trưởng giả nói như sau: “Lành thay, nếu bố thí y phục, thực phẩm, thuốc chữa bệnh cho những người xuất gia như vậy thì sẽ được lợi ích rất lớn”.
Ông lại suy nghĩ: “Nếu ta có khả năng ta sẽ cúng dường những người như vậy”.
Bấy giờ có một Tỷ kheo ni nghe thế liền nói với trưởng giả: “Lão trượng, ông chỉ cần xuất tiền sắm thức ăn, tôi sẽ lo liệu giúp cho”. Người đàn việt này rất có tín tâm nên hoan hỷ đưa tiền cho cô.
Tỷ kheo ni bèn nói: “Lão trượng, ông phải đi mời các Tỷ kheo”.
Ông thưa: “Tôi không biết, nhờ cô mời giúp cho”. Tỷ kheo ni liền sắm sửa các thức ẩm thực, xong rồi nói với đàn việt: “Lão trượng, các thức ăn đã sửa soạn xong, ông hãy đến chỗ Tỷ kheo báo tin đã đến giờ”.
Người đàn việt nói: “Tôi không biết, nhờ cô đi đến các Tỷ kheo báo giờ giúp cho”.
Tỷ kheo ni bèn đến tinh xá bạch: “Đã đến giờ”.
Thế rồi các Tỷ kheo đi đến nhà đàn việt, an tọa chỉnh tề. Tỷ kheo ni bèn nói với đàn việt: “Ông hãy bưng dọn thức ăn cúng dường lên”.
Ông ta nói: “Thưa cô, cô hãy dọn giúp tôi”.
Các Tỷ kheo liền suy nghĩ: “Bữa cúng dường này do Tỷ kheo ni tán thán mà có chứ chẳng nghi ngờ gì nữa”, liền đứng dậy ra về.
Họ đi như vậy một người, hai người cuối cùng cả chúng đều ra về hết. Đàn việt liền hỏi Tỷ kheo ni: “Các tôn giả vì sao đi hết mà không trở lại?”
Cô ni đáp: “Tôi không biết.Ông hãy đến chỗ Thế Tôn hỏi việc này. Phật sẽ nói cho ông hay”.
Ông ta bèn đến chỗ Phật, cúi đầu đảnh lễ chân Phật, đứng hầu một bên, rồi đem sự việc trên trình bày rõ đầu đuôi với Thế Tôn. Phật liền bảo gọi các Tỷ kheo đến. Khi họ đến rồi, Phật liền hỏi rõ sự kiện kể trên: “Các ông có việc đó thật như vậy chăng?”
—Có thật như vậy, bạch Thế Tôn.
—Từ hôm nay trở đi ta cho phép (các Tỷ kheo thọ trai) ở nhà đàn việt cũ.
Thế rồi, Phật truyền lệnh cho các Tỷ kheo đang sống tại thành Xá Vệ phải tập họp lại tất cả, vì mười lợi ích mà chế giới cho các Tỷ kheo, dù ai nghe rồi cũng phải nghe lại:
“Nếu Tỷ kheo biết thức ăn do Tỷ kheo ni tán thán mới có, mà ăn—ngoại trừ đàn việt cũ—thì phạm Ba dạ đề”.
Giải thích
Biết: Như trên đã nói.
Tán thán: Khen ngợi đức hạnh của người nào đó là cao quí.
Thức ăn: Gồm có năm loại: Mì, bún, cơm, cá, thịt.
Ngoại trừ đàn việt cũ: (Tỳ kheo thọ trai tại nhà đàn việt cũ) Đức thế Tôn bảo là không có tội.
Ba Dạ Đề: Như trên đã nói.
Tóm lại có các trường hợp tán thán: Xướng đẳng cúng thời thán, hạ thực thời thán, sơ tác thực thời thán, tác thực dĩ biện thán; hữu thỉnh thời thán.
1. Xướng đẳng cúng thời thán: Dọn thức ăn xong, báo tin giờ ăn đã đến, bỗng có Tỷ kheo khác tới, Tỷ kheo ni liền nói vơí Ưu bà di: “Lại có Tỷ kheo đến”. Ưu bà di liền nói: “Lành thay, tôi hoan hỷ cho người đi mời còn không được huống gì tự nhiên đến”, thì trong trường hợp này không gọi là tán thán. Trái lại, nếu Tỷ kheo ni nói: “Vị này sống ở nơi rừng vắng, đi khất thực, mặc y phấn tảo, ngồi giữa trời, dùng nệm cỏ…”, dùng những lời ca ngợi như vậy để được cúng dường mà Tỷ kheo ăn, thì phạm Ba dạ đề.
2. Hạ thực thời thán: Vừa mới ngồi ăn, bỗng có Tỷ kheo khác lại đến, thì cũng như trường hợp vừa nói trên.
3. Tác thực thời thán: Lúc đang ăn thì có Tỷ kheo khác đến, trong trường hợp này cũng như trên đã nói.
4. Tác thực dĩ biên thán: Lúc ăn vừa xong thì có Tỷ kheo khác đến, Tỷ kheo ni liền nói với Ưu bà di: “Lại có Tỷ kheo đến”. Nếu Ưu bà di nói: “Lành thay, tôi cố sai người đi mời mà còn không thể được, huống gì bỗng nhiên lại tới”, thì không gọi là tán thán. Hoặc giả Ưu bà di nói: “Phải cúng dường nhiều bún, bánh, cơm, canh ngon lành một cách bình đẳng”, cũng không gọi là tán thán. Trái lại, nếu cô ni chê thức ăn ít, rồi bảo đàn việt: “Hãy đưa thêm thầy ấy một nắm bún nữa”, (mà Tỷ kheo ấy nhận lấy thức ăn) thì phạm Ba dạ đề.
5. Hữu thỉnh thời thán: Nếu Tỷ kheo nói với đàn việt: “Đồ chúng của thầy ấy đa văn tinh tấn, nên mời hết tất cả”. Đó gọi là tán thán để cúng dường thức ăn. Nếu cô ta nói: “Vị thủ chúng kia đa văn tinh tấn, nên vì Tỷ kheo này mà mời thêm hai mươi người nữa”. Trong trường hợp này một người được tán thán, còn những người khác không phạm (tức không phải được tán thán). Nếu gặp trường hợp tán thán để mời thọ trai như thế, thì các Tỷ kheo nên hoán chuyển chỗ ngồi, chứ không nên bỏ bàn ăn ra về. Nếu chỗ ngồi bên cạnh dơ bẩn không sạch, không thích đổi chỗ, thì nên tâm niệm: “Thức ăn ta đang ăn trong bát này là của Tỷ kheo mỗ giáp kia”, nghĩ như vậy thì không có tội.
Nếu Tỷ kheo ni nói vơi Ưu bà di: “Bà nên thường xuyên mời tôn giả mỗ giáp kia đến cúng dường”. Đó gọi là tán thán. Trái lại, nếu nói: “Tôn giả kia có thể thường đi khất thực”, thì không gọi là tán thán. Thế nên nói:
“Tăng không sai, trời tối,
Không bạch, vì thức ăn.
Cùng ngồi, cùng đi chung
Qua đò và cho y.
May y, tán thán thực
Xong phần ba bạt cừ”.
LUẬT MA HA TĂNG KỲ
Hết quyển thứ mười lăm.