LUẬT MA HA TĂNG KỲ

GIỚI BA-DẠ-ĐỀ

NÓI RÕ PHẦN THỨ 6 CỦA 92 PHÁP ĐƠN ĐỀ.

46. GIỚI: XUYÊN TẠC GIÁO PHÁP, KHÔNG NGHE LỜI KHUYÊN.

Khi Phật an trú tại thành Xá Vệ, nói rộng như trên. Bấy giờ, tôn giả A Lợi Tra hủy báng khế kinh như sau: “Theo tôi hiểu các pháp do Như Lai thuyết giảng thì những pháp mà Ngài bảo là chướng đạo, khi thực hành chúng, chẳng có gì chướng đạo cả”. Khi ấy, các Tỉ kheo bèn nói: “Trưởng lão A Lợi Tra, chớ hủy báng khế kinh. Đó là ác kiến, là kiến giải bất thiện, sẽ đọa vào đường ác, rơi xuống địa ngục”. Can gián một lần, hai lần, ba lần vẫn không chấm dứt, các Tỉ kheo liền đem sự việc ấy đến bạch lên Thế Tôn: “Bạch Thế Tôn, A Lợi Tra hủy báng khế kinh, nói như sau: “Theo chỗ tôi biết, những pháp do đức Như Lai thuyết giảng, thì những pháp mà Ngài cho là chướng đạo, khi thực hành chúng, chẳng có gì chướng đạo cả”. Chúng con đã can gián một lần, hai lần, ba lần mà thầy vẫn không chấm dứt”.

Phật liền nói với các Tỉ kheo: “Ông A Lợi Tra ấy hủy báng khế kinh, nói rằng: “Theo chỗ tôi biết, các pháp do đức Như Lai thuyết giảng thì những pháp mà Ngài cho là chướng đạo, khi thực hành chúng, chẳng có gì chướng đạo cả”. Rồi được can gián một lần, hai lần, ba lần mà vẫn không chấm dứt, thì các ông nên đến chỗ vắng can gián ba lần, đến giữa nhiều người can gián ba lần, rồi đến giữa chúng Tăng can gián ba lần. Khi can gián ở chỗ vắng, nên hỏi như sau: “Trưởng lão A Lợi Tra, ông hủy báng khế kinh nói như sau: “Theo chỗ tôi biết, các pháp đức Như Lai thuyết giảng thì những pháp mà Ngài bảo là chướng đạo, khi thực hành chúng chẳng có gì là chướng đạo cả”, rồi được can gián ba lần mà không từ bỏ phải không?”. Nếu ông đáp: “Đúng như vậy”. Thì bấy giờ nên can gián ở chỗ vắng như sau: “A Lợi Tra, ông hủy báng khế kinh, đó là ác kiến, là kiến giải bất thiện, sẽ đọa vào đường ác, rơi xuống địa ngục. Trưởng lão, tôi vì từ tâm can gián ông là muốn cho ông được lợi ích, vậy ông hãy bỏ việc ấy đi. Lần can gián thứ nhất đã xong, còn hai lần can gián nữa, vậy ông hãy bỏ việc ấy đi”.

A Lợi Tra nói: “Đó là kiến giải tốt, kiến giải thiện, từ khi tôi chấp hành đến nay, cha mẹ bạn bè quen biết của tôi cũng thường áp dụng kiến giải này. Nay tôi không thể không hỏi cha mẹ bạn bè quen biết mà lại vứt bỏ kiến giải này”.

Thế rồi, nếu can gián đến lần thứ hai thứ ba mà vẫn không chấm dứt, cho đến can gián ở chỗ nhiều người ba lần cũng không chấm dứt, thì phải đến giữa chúng Tăng làm pháp yết ma cầu thính (xin được nghe), nói như sau: “Xin đại đức Tăng lắng nghe! A Lợi Tra hủy báng khế kinh nói thế này: “Theo tôi biết các pháp do Như Lai thuyết giảng, những pháp mà Ngài bảo rằng chướng đạo, khi thực hành chúng chẳng có gì chướng đạo cả”. Đã được can gián ở chỗ vắng ba lần, ở giữa nhiều người ba lần mà vẫn không bỏ việc ấy. Nếu thời gian thích hợp đối với Tăng, nay Tăng cũng lại can gián ở giữa Tăng ba lần khiến cho bỏ việc ấy”.

Trong chúng Tăng nên hỏi: “Trưởng lão A Lợi Tra, có thật ông hủy báng khế kinh nói rằng: “Theo tôi biết các pháp do Như Lai thuyết giảng, những pháp mà Ngài bảo là chướng đạo, khi thực hành chúng chẳng có gì là chướng đạo cả”, rồi được can gián ở chỗ vắng ba lần, ở giữa nhiều người ba lần mà vẫn không bỏ việc ấy phải không?”.

Nếu ông đáp: “Đúng như vậy”, thì ở giữa chúng Tăng nên can gián. Cách can gián phải nói như sau: “A Lợi Tra, ông chớ hủy báng khế kinh. Hủy báng khế kinh sẽ đọa vào đường ác, rơi xuống địa ngục. Này trưởng lão, Tăng muốn lợi ích cho ông, ông phải vâng lời chúng Tăng. Một lần can gián đã xong, còn hai lần can gián nữa, ông phải bỏ việc ấy đi”.

A Lợi Tra lại nói: “Đó là kiến giải tốt, kiến giải thiện, từ cha mẹ tôi trở đi đều kế thừa áp dụng kiến giải này. Tôi không thể không hỏi cha mẹ mà bỏ kiến giải này”.

Tuy được can gián đến lần thứ hai, thứ ba mà ông vẫn không bỏ, do đó, các Tỉ kheo liền đem sự việc ấy đến bạch lên Thế Tôn. Phật bèn nói với các Tỉ kheo: “Nếu Tỉ kheo A Lợi Tra hủy báng khế kinh nói rằng: “Theo tôi hiểu pháp của Như Lai thuyết giảng, những pháp mà Ngài bảo là chướng đạo, khi thực hành chúng, chẳng có gì chướng đạo cả”, rồi được can gián ở chỗ vắng ba lần, ở giữa nhiều người ba lần, ở giữa chúng Tăng ba lần mà vẫn không bỏ việc ấy, thì các ông nên làm pháp yết ma cử tội Tỉ kheo A Lợi Tra”.

Thế rồi, Phật truyền lệnh cho các Tỉ kheo đang sống tại thành Xá Vệ phải tập họp lại tất cả, vì mười lợi ích mà chế giới cho các Tỉ kheo, dù ai nghe rồi cũng phải nghe lại:

—Nếu Tỉ kheo nói thế này: “Thưa trưởng lão, tôi biết pháp do Thế Tôn thuyết giảng, những pháp mà Thế Tôn bảo là chướng đạo, khi thực hành chẳng có gì là chướng đạo”, thì các Tỉ kheo nên khuyên can Tỉ kheo ấy, nói thế này: “Trưởng lão, ông chớ hủy báng Thế Tôn, hủy báng Thế Tôn là bất thiện. Thế Tôn không nói như thế. Thế Tôn nói pháp chướng đạo thì thật là chướng đạo. Ông hãy bỏ việc ấy đi”. Nếu các Tỉ kheo khuyên can Tỉ kheo ấy mà ông vẫn kiên trì không bỏ, thì nên khuyên can như vậy đến lần thứ hai, thứ ba. (Sau ba lần khuyên can) mà bỏ thì tốt, nếu không bỏ thì Tăng nên làm yết ma cử tội. Sau khi làm yết ma xong, (Tỉ kheo ấy) phạm tội Ba dạ đề.

Giải thích

Tỉ kheo: Như trên đã nói.

Thế Tôn: là bậc nhất thiết trí, nhất thiết kiến.

Pháp: Những điều do Thế Tôn nói, những điều được Thế Tôn ấn khả.

Thế Tôn nói: Thế Tôn tự nói.

Ấn khả: Các đệ tử nói rồi Thế Tôn ấn chứng (chuẩn nhận).

Nói: Nói ra từng câu từng câu rõ ràng.

Biết: Tức là cái biết thuộc trí tuệ siêu đẳng.

Pháp chướng đạo: Đối với ngũ dục mắt thấy sắc sinh ra Aùi luyến nhớ nghĩ, tâm sinh ham muốn đắm trước, đối với tai, mũi, lưỡi, thân, cảm thọ cũng như vậy.

Thực hành (tập): Làm việc đó.

Chẳng có gì chướng đạo: Không chướng đạo Sơ thiền, Nhị thiền, Tam thiền, Tứ thiền và các quả Tu đà hoàn, Tư đà hàm, A na hàm, A la hán.

Các Tỉ kheo: Hoặc một người, hoặc nhiều người, hoặc Tăng chúng.

Tỉ kheo ấy: Như Tỉ kheo A Lợi Tra.

Chớ hủy báng Thế Tôn: (chớ) giữ lấy những điều không thật, giữ lấy những điều không tốt.

Can gián ba lần: Hoặc (ở chỗ) một người, hoặc (ở chỗ) nhiều người, hoặc (ở giữa) chúng Tăng.

Ba dạ đề: Như trên đã nói; cho đến ba lần can gián, nếu bỏ thì tốt; cho đến không bỏ thì Tăng nên làm yết ma cử tội bắt sám hối Ba dạ đề.

Thế nên nói (như trên).

LUẬT MA HA TĂNG KỲ

Hết quyển thứ mười bảy