KINH TẠP A-HÀM

KINH 1213. BẤT LẠC

Tôi nghe như vầy:

Một thời, Đức Phật ở trong vườn Trúc, khu Ca-lan-đà, tại thành Vương xá.

Bấy giờ, Tôn giả Ni-câu-luật Tướng ở chỗ hoang dã nơi ở của cầm thú. Tôn giả Bà-kỳ-xá xuất gia chưa lâu mà có những oai nghi như vầy: sống nương vào thành ấp, làng xóm. Sáng sớm đắp y, ôm bát vào thành ấp, làng xóm đó khất thực, khéo bảo vệ thân mình, giữ gìn các căn môn, nhiếp tâm cột niệm. Ăn xong, trở về trú xứ, cất y bát, rửa chân xong, vào thất tọa thiền, giây lát xả thiền. Không chấp đắm khất thực, nhưng vị kia không tùy thời giáo thọ, giáo giới, nên tâm không an lạc, giống như sống trong chỗ thâm sau, chung quanh bị che kín.

Rồi, Tôn giả Bà-kỳ-xá suy nghĩ: “Ta không được lợi, khó được, chứ không phải dễ được! Ta không được tùy thời giáo thọ, giáo giới, nên tâm không an lạc, giống như sống trong chỗ thâm sau, chung quanh bị che kín. Nay ta nên nói kệ tán thán sự nhàm chán của mình.” Liền nói kệ:

Phải bỏ vui, không vui,
Cùng tất cả giác tham;
Không gầy dựng xòm giềng,
Lìa nhiễm gọi Tỳ-kheo.

Với sáu giác tâm tưởng,
Rong ruổi nơi thế gian;
Che giấu ác bất thiện,
Không thể lột bỏ vỏ.

Nơi tâm vui ô uế,
Đó không gọi Tỳ-kheo.
Trói buộc bởi hữu dư,
Cùng thấy, nghe, hiểu, biết.

Với người giác ngộ dục,
Nơi kia không còn nhiễm.
Người không nhiễm như vậy,
Thì đó là Mâu-ni.

Đại địa và hư không,
Các sắc tượng thế gian;
Chúng là pháp biến diệt,
Vắng lặng tự quyết định.

Tu tập lâu pháp khí,
Mà được tam-ma-đề;
Không xúc, không dối nịnh,
Tâm này rất chuyên chú.

Thánh kia Niết-bàn lâu,
Cột niệm đợi thời diệt.

Khi Tôn giả nói kệ tự nhàm chán, xa lìa; tâm tự khai giác đối với những điều không vui, sau khi đã khai giác rồi thì tâm trụ hân hoan.