LUẬT MA HA TĂNG KỲ

GIỚI PHÁP CỦA TỈ-KHEO-NI

NÓI RÕ PHẦN ĐẦU CỦA TÁM BA-LA-DI.

8. GIỚI: THEO TỈ-KHEO PHẠM TỘI.

Khi Phật an trú tại vườn Cù-sư-la, tại Câu-diệm-di, lúc ấy Xiển-đà phạm một hoặc hai trọng tội trong 5 thiên tội; các Tỉ-kheo hỏi:

—Trưởng lão Xiển-đà, thầy có thấy tội ấy không?

—Ông muốn hỏi tôi có thấy hay không thấy, nhưng tôi không thấy.

Các Tỉ-kheo bèn đem sự việc ấy đến bạch lên Thế Tôn. Phật liền nói với các Tỉ-kheo: “Ông Xiển-đà này thường phạm một, hai tội trong 5 thiên tội mà nói không thấy, thì Tăng nên làm yết-ma cử tội không thấy tội”.

Sau khi Tăng làm yết-ma cử tội không thấy tội rồi, thầy bèn đi đến tinh xá của Tỉ-kheo-ni, nói với mẹ mình:

—Bà-lộ-ê-đế, Tăng làm yết-ma cử tội tôi, không cho tôi hưởng chung pháp thực, vị thực.

—Quái lạ thay, thế thì nay hãy hưởng chung pháp thực, vị thực với ta.

Thế rồi, người mẹ tùy thuận Xiển-đà, Tỉ-kheo-ni bèn can bà rằng:

—Này mẹ của Xiển-đà, Tỉ-kheo Xiển-đà này đã được Tăng hòa hợp làm yết-ma cử tội đúng pháp, nhưng thầy chưa làm đúng pháp, cô chớ có tùy thuận.

—Tôi là mẹ, ông ta do tôi sinh ra, nếu tôi không tùy thuận thì ai sẽ tùy thuận?

Các Tỉ-kheo-ni bèn nói với Đại Ái Đạo. Đại Ái Đạo liền đem việc đó đến bạch lên Thế Tôn. Phật liền dạy: “Nếu Xiển-đà đã được Tăng làm yết-ma cử tội đúng pháp mà Tỉ-kheo-ni mẹ của Xiển-đà lại tùy thuận ông ấy, thì các ngươi nên can gián ở chỗ vắng ba lần, ở chỗ nhiều người ba lần và ở giữa chúng Tăng ba lần cho bỏ việc ấy. Khi can gián ở chỗ vắng nên hỏi như sau: “Có thật cô biết Xiển-đà đã được Tăng làm yết-ma cử tội đúng pháp mà vẫn tùy thuận không?” Nếu đáp: “Có thật như vậy”, thì nên khuyên can: “Này mẹ của Xiển-đà, Tăng đã làm yết-ma cử tội đúng pháp mà chưa thực hiện đúng thì đừng có tùy thuận. Nay tôi vì lòng từ khuyên can là muốn cho cô được lợi ích. Một lần khuyên đã xong, còn hai lần khuyên can nữa, cô có bỏ việc đó không?” Khuyên can lần thứ hai, thứ ba cũng làm như vậy. Rồi khuyên can ba lần ở giữa nhiều người cũng làm như vậy mà nếu như không bỏ thì nên làm pháp yết-ma cầu thính (xin nghe sự trình bày) giữa chúng Tăng. Người làm yết-ma nên nói như sau:

—Xin các thánh giả Tăng lắng nghe. Tăng đã làm yết-ma cử tội Xiển-đà đúng pháp, nhưng Xiển-đà chưa thực hiện đúng, mà mẹ của Xiển-đà lại tùy thuận thầy. Thế rồi, đã được khuyên can ba lần ở chỗ vắng, khuyên can ba lần ở chỗ nhiều người để cô bỏ việc ấy mà cô không bỏ. Nếu thời gian của Tăng đã đến, nay Tăng cũng nên khuyên can ba lần để cho bỏ việc ấy.

Thế rồi, nên hỏi mẹ của Xiển-đà ở giữa chúng Tăng: “Có thật cô biết Tăng đã hòa hợp làm yết-ma cử tội Xiển-đà, song Xiển-đà chưa thực hiện đúng mà cô tùy thuận, thế rồi, Tăng đã khuyên can cô ở chỗ vắng ba lần, ở chỗ nhiều người ba lần, cho cô bỏ việc ấy mà cô vẫn không bỏ phải không?' Nếu đáp: “Có thật như vậy”, thì nên khuyên can: “Tăng đã hòa hợp làm yết-ma cử tội Xiển-đà đúng pháp, cô chớ nên tùy thuận (Xiển-đà). Nay Tăng muốn cho cô được lợi ích nên khuyên can, cô nên tùy thuận lời khuyên của Tăng. Một lần khuyên can đã xong, còn hai lần khuyên can nữa, cô có bỏ việc đó không?' Nhưng cô đáp: “Không bỏ”. Rồi Tăng tiếp tục khuyên can như vậy đến lần thứ hai, thứ ba, cô vẫn nói: “Không bỏ”.

Tỉ-kheo-ni bèn đem việc ấy đến bạch lên Thế Tôn. Phật liền bảo gọi cô đến. Khi cô tới rồi, Phật liền hỏi:

—Ngươi có việc đó thật không?

—Có thật như vậy, bạch Thế Tôn!

—Đó là việc xấu. Ngươi không từng nghe Ta dùng vô lượng phương tiện chê trách tính bướng bỉnh khó khuyên bảo, ca ngợi sự dễ khuyên bảo hay sao? Đó là việc phi pháp, phi luật, trái lời Ta dạy. Không thể dùng việc ấy để nuôi lớn thiện pháp được. Vì sao ngươi lại tùy thuận Tỉ-kheo bị cử tội? Từ nay về sau, Ta không cho phép tùy thuận Tỉ-kheo bị cử tội.

Thế rồi, Phật bảo Cù-đàm-di truyền lệnh cho các Tỉ-kheo-ni đang sống tại Câu-diệm-di phải tập họp lại tất cả, dù cho ai nghe rồi cũng phải nghe lại:

—Nếu Tỉ-kheo-ni nào biết Tăng đã hòa hợp, như pháp, như luật làm yết-ma cử tội Tỉ-kheo, song vị Tỉ-kheo ấy chưa thi hành đúng mà tùy thuận, thì các Tỉ-kheo-ni nên khuyên can Tỉ-kheo-ni ấy rằng: “Này thánh giả, vị Tỉ-kheo ấy đã được Tăng hòa hợp, như pháp, như luật, làm yết-ma cử tội, song thầy ấy chưa thi hành đúng, cô chớ có tùy thuận”. Nếu khi các Tỉ-kheo-ni khuyên can mà nói như sau: “Tôi không tùy thuận thì ai tùy thuận”, thì các Tỉ-kheo-ni nên khuyên can đến lần thứ hai thứ ba cho bỏ việc ấy. Nếu bỏ thì tốt, nếu không bỏ thì Tỉ-kheo-ni ấy phạm tội Ba-la-di, không được sống chung.

GIẢI THÍCH:

(Một số từ ngữ ở trên đã giải thích).

Hòa hợp: Không biệt chúng.

Như pháp như luật: Khi thấy không có tội thì không vạch tội về việc không bỏ ba ác kiến là: hủy báng khế kinh, tà kiến và biên kiến.

Bị cử (tội): Không được sống chung.

Chưa thi hành đúng pháp: Chưa tùy thuận Tăng, Tăng chưa giải tội.

Tùy thuận: Cùng hưởng pháp thực và vị thực.

Khi các Tỉ-kheo-ni khuyên can Tỉ-kheo-ni ấy như sau: “Này thánh giả, vị Tỉ-kheo ấy đã được Tăng làm yết-ma cử tội đúng pháp, đúng luật mà thầy chưa thi hành đúng, vậy cô chớ có tùy thuận hưởng chung pháp thực và vị thực”, mà Tỉ-kheo-ni ấy nói: “Tôi không tùy thuận thì ai tùy thuận”, thì nên khuyên can tiếp cho đến ba lần. Sau ba lần nếu bỏ thì tốt, nếu không bỏ thì Tỉ-kheo-ni ấy phạm tội Ba-la-di.

Ba-la-di: Như trên đã nói.

Khi khuyên can ở chỗ vắng ba lần mà bỏ thì tốt, nếu không bỏ thì phạm tội Việt tì-ni. Khi khuyên can ở chỗ nhiều người cũng như vậy.

Khi khuyên can ở giữa chúng Tăng, lúc bắt đầu khuyên can thì phạm tội Việt tì-ni, khuyên can xong thì phạm tội Thâu-lan-giá. Khi bắt đầu khuyên can lần thứ hai thì phạm tội Việt tì-ni, khuyên can xong thì phạm tội Thâu-lan-giá. Khi bắt đầu khuyên can lần thứ ba thì phạm tội Thâu-lan-giá, khuyên can xong thì phạm tội Ba-la-di.

Sau khi được khuyên can ở chỗ vắng, ở chỗ nhiều người, ở giữa chúng Tăng, gồm tất cả các tội Việt tì-ni, tất cả các tội Thâu-lan-giá thành một trọng tội là Ba-la-di. Nếu đang lúc khuyên can mà bỏ thì tùy theo bỏ ở chỗ nào trị tội ở khoản đó.

Kệ tóm tắt:

“Dâm, trộm và giết người,
Nói dối rằng đắc đạo.
Vai xuống, đầu gối lên,
Tâm nhiễm ô, tám việc.
Giấu tội, theo người phạm,
Hết tám Ba-la-di”.