TẠNG LUẬT

TẬP YẾU

SƯU TẬP VỀ CÁC BÀI KỆ:

Sau khi đã đắp y một bên vai, sau khi đã chắp tay lại, lại còn có vẻ đang mong mỏi, vì sao ngươi đi đến nơi đây?

Các điều đã được quy định trong hai bộ Luật được đưa ra đọc tụng trong các lễ Uposatha, các điều học ấy là có bao nhiêu, đã được quy định ở bao nhiêu thành phố?

Câu hỏi của ngươi hay, ngươi đã hỏi chí lý, quả vậy ta sẽ giảng cho ngươi, như thế ngươi sẽ được tận tường.

Các điều đã được quy định trong hai bộ Luật được đưa ra đọc tụng trong các lễ Uposatha, chúng gồm có ba trăm năm mươi điều, đã được quy định ở bảy thành phố.

Chúng đã được quy định ở bảy thành phố nào? Ngài ơi, xin Ngài hãy nói cho con. Sau khi đã lắng nghe lời nói chỉ dạy ấy, chúng con sẽ thực hành vì lợi ích cho chúng con.

Chúng đã được quy định ở thành Vesāli, thành Rājagaha, rồi thành Sāvatthi, và thành Āḷavī, ở thành Kosambi, trong xứ sở Sakka, và luôn cả ở Bhagga nữa.

Bao nhiêu đã được quy định ở thành Vesāli? Bao nhiêu đã được thực hiện ở thành Rājagaha? Bao nhiêu là ở thành Sāvatthi? Bao nhiêu đã được thực hiện ở thành Āḷavī?

Bao nhiêu đã được quy định ở thành Kosambi? Bao nhiêu được đề cập ở xứ Sakka? Bao nhiêu đã được quy định ở xứ Bhagga? Đã được con hỏi, xin Ngài hãy nói về điều ấy.

Mười điều đã được quy định ở thành Vesāli, hai mươi mốt điều đã được thực hiện ở Rājagaha, tất cả hai trăm chín mươi bốn điều đã được thực hiện ở thành Sāvatthi.

Sáu điều đã được quy định ở thành Āḷavī, tám điều đã được quy định ở thành Kosambi, tám điều được đề cập ở xứ Sakka, ba điều đã được quy định ở xứ Bhagga.

Các điều đã được quy định ở thành Vesāli, ngươi hãy lắng nghe các điều ấy theo như lời giảng giải: Chuyện đôi lứa, mạng người, pháp thượng nhân, và phụ trội, màu đen.

Sự thực chứng, bữa ăn được thỉnh sau, tăm xỉa răng và nước, vị đạo sĩ lõa thể, và mắng nhiếc ở các tỳ khưu ni, mười điều này đã được thực hiện ở thành Vesāli.

Các điều nào đã được quy định ở Rājagaha, ngươi hãy lắng nghe các điều ấy theo như lời giảng giải: Ở Rājagaha, lấy vật không được cho, và luôn cả hai chuyện bôi nhọ.

Và còn hai việc chia rẽ, y nội, vàng bạc, chỉ sợi, và với vị phàn nàn, đồ khất thực môi giới, vật thực chung nhóm, lúc sái giờ, và việc đi thăm viếng, việc tắm, chưa đủ hai mươi (tuổi).

Sau khi đã cho y, đang hướng dẫn sự phục vụ, các điều này đã được thực hiện ở Rājagaha, trên đỉnh núi, sự du hành, là chính ở nơi ấy, với sự trao thỏa thuận, là hai mươi mốt.

Các điều nào đã được quy định ở thành Sāvatthi, ngươi hãy lắng nghe các điều ấy theo như lời giảng giải: bốn pārājika, các điều saṅghādisesa là mười sáu.

Và có hai điều aniyata, ba mươi bốn điều nissaggiya, và luôn cả một trăm năm mươi sáu điều nhỏ nhặt được nói đến.

Và luôn cả mười tội đáng chê trách, và bảy mươi hai điều sekhiya, tất cả hai trăm chín bốn điều là đã được thực hiện ở thành Sāvatthi.

Các điều nào đã được quy định ở thành Āḷavī, ngươi hãy lắng nghe các điều ấy theo như lời giảng giải: Cốc liêu, tơ tằm, và chỗ nằm, về việc đào, ‘Thiên nhân, hãy đi đi,’ và các vị tưới nước có sinh vật, sáu điều này đã được thực hiện ở thành Āḷavī.

Các điều nào đã được quy định ở thành Kosambi, ngươi hãy lắng nghe các điều ấy theo như lời giảng giải: Trú xá lớn, khó dạy, (tránh né bằng) điều khác, cánh cửa lớn, và men say, không tôn trọng, theo Pháp, với việc uống sữa là thứ tám.

Các điều nào đã được quy định ở xứ Sakka, ngươi hãy lắng nghe các điều ấy theo như lời giảng giải: Các lông cừu, và bình bát, luôn cả việc giáo giới, dược phẩm.

Kim, và luôn cả ở trong rừng, sáu điều này ở thành Kapilavatthu, làm sạch sẽ với nước, việc giáo giới được nói lên ở các tỳ khưu ni.

Các điều nào đã được quy định ở xứ Bhagga, ngươi hãy lắng nghe các điều ấy theo như lời giảng giải: Sau khi đốt lửa các vị sưởi ấm, dính thức ăn, cơm cặn.

Bốn điều pārājika, saṅghādisesa là có bảy, tám điều nissaggiya, và các điều nhỏ nhặt là ba mươi hai.

Hai điều đáng chê trách, ba điều sekhiya, năm mươi sáu điều học đã được quy định bởi đức Phật, vị thân quyến mặt trời, ở sáu thành phố.

Hai trăm chín mươi bốn (điều học), tất cả đã được thực hiện ở thành Sāvatthi bởi đức phật Gotama, có lòng bi mẫn, có danh tiếng.

BỐN SỰ HƯ HỎNG:

Điều gì chúng tôi hỏi, ngài đã trả lời cho chúng tôi về mỗi một điều ấy được rõ ràng không có sai lệch. Tôi hỏi ngài điều khác. Ngài ơi, xin ngài hãy nói về điều ấy.

Tội nặng và cả tội nhẹ, còn dư sót, không còn dư sót, xấu xa, và không xấu xa, và những điều (được nhắc nhở) cho đến lần thứ ba.

(Các tội) quy định chung và riêng, các sự hư hỏng, được làm lắng dịu với những dàn xếp nào? Xin Ngài hãy nói rõ tất cả các điều này. Ngài ơi, chúng tôi đang lắng nghe lời dạy của Ngài.

Những điều nào là nặng gồm có ba mươi mốt, ở đây có tám điều là không còn dư sót. Những tội nào là nặng, những tội ấy xấu xa; những tội nào xấu xa, chúng là sự hư hỏng về giới.

Tội pārājika, tội saṅghādisesa được đề cập đến là ‘sự hư hỏng về giới.’ Tội thullaccaya, tội pācittiya, tội pāṭidesanīya là tương tợ.

Tội dukkaṭa, tội dubbhāsita, và tội vị mắng nhiếc, có ý định đùa giỡn, điều này đây được xác định là sự hư hỏng về hạnh kiểm.

Các vị nắm lấy quan điểm đối nghịch, tôn vinh phi chánh Pháp, có tuệ kém, bị mê mờ che phủ, chê bai đấng Toàn Giác, điều này đây được xác định là sự hư hỏng về quan điểm.

Vì lý do nuôi mạng, vì nguyên nhân nuôi mạng, vị có ước muốn xấu xa, bị thúc giục bởi ước muốn, rồi khoác lác về pháp thượng nhân không có không thực chứng. Vì lý do nuôi mạng, vì nguyên nhân nuôi mạng, vị thực hành việc mai mối. Vì lý do nuôi mạng, vì nguyên nhân nuôi mạng, vị nói rằng: ‘Vị (tỳ khưu) nào sống trong trú xá của đạo hữu, vị tỳ khưu ấy là bậc A-la-hán.’ Vì lý do nuôi mạng, vì nguyên nhân nuôi mạng, vị tỳ khưu yêu cầu các vật thực hảo hạng vì lợi ích của bản thân rồi thọ thực. Vì lý do nuôi mạng, vì nguyên nhân nuôi mạng, vị tỳ khưu không bị bệnh yêu cầu xúp hoặc cơm vì lợi ích của bản thân rồi thọ thực. Điều này đây được xác định là sự hư hỏng về nuôi mạng.

Mười một điều (nhắc nhở) cho đến lần thứ ba, ngươi hãy lắng nghe các điều ấy theo như lời giảng giải: Các vị xu hướng theo kẻ bị án treo, tám điều (được nhắc nhở) cho đến lần ba, vị Ariṭṭha, và vị ni Caṇḍakālī; những điều này đây là (được nhắc nhở) cho đến lần thứ ba.

LIÊN QUAN VIỆC CẮT BỚT, v.v...:

Bao nhiêu điều liên quan việc cắt bớt? Bao nhiêu điều liên quan việc đập vỡ? Bao nhiêu điều liên quan việc móc ra? Bao nhiêu điều pācittiya (chỉ vì nguyên nhân ấy) không điều nào khác?

Bao nhiêu sự đồng ý của các tỳ khưu? Bao nhiêu sự đúng đắn (trong trường hợp ấy)? Bao nhiêu điều tối đa? Bao nhiêu điều ‘dầu biết’ đã được quy định bởi đức Phật, vị thân quyến mặt trời?

Sáu điều liên quan việc cắt bớt. Một điều liên quan việc đập vỡ. Một điều liên quan việc móc ra. Bốn điều pācittiya (chỉ vì nguyên nhân ấy) không điều nào khác.

Bốn sự đồng ý của các tỳ khưu. Bảy sự đúng đắn (trong trường hợp ấy). Mười bốn điều ‘tối đa.’ Mười sáu điều ‘dầu biết’ đã được quy định bởi đức Phật, vị thân quyến mặt trời.

ĐIỀU KHÔNG QUY ĐỊNH CHUNG, v.v...:

Hai trăm hai mươi điều học của các tỳ khưu được đưa ra đọc tụng trong các lễ Uposatha.

Ba trăm lẻ bốn điều học của các tỳ khưu ni được đưa ra đọc tụng trong các lễ Uposatha.

Của các vị tỳ khưu có bốn mươi sáu điều học là không được quy định chung với các tỳ khưu ni. Của các tỳ khưu ni có một trăm ba mươi điều là không được quy định chung với các vị tỳ khưu.

Một trăm bảy mươi sáu là không chung cho cả hai, một trăm bảy mươi bốn được thực hành bình đẳng cho cả hai (hội chúng).

Hai trăm hai mươi điều học của các vị tỳ khưu được đưa ra đọc tụng trong các lễ Uposatha, ngươi hãy lắng nghe các điều ấy theo như lời giảng giải.

Bốn điều pārājika, saṅghādisesa là mười ba, điều aniyata có hai, đúng ba mươi điều nissaggiya, và chín mươi hai điều nhỏ nhặt, bốn điều pāṭidesanīya, bảy mươi hai điều sekhiya.

Và hai trăm hai mươi điều học này của các tỳ khưu được đưa ra đọc tụng trong các lễ Uposatha.

Ba trăm lẻ bốn điều học của các tỳ khưu ni được đưa ra đọc tụng trong các lễ Uposatha, ngươi hãy lắng nghe các điều ấy theo như lời giảng giải.

Tám điều pārājika, saṅghādisesa là mười bảy, đúng ba mươi điều nissaggiya, và luôn cả một trăm sáu mươi sáu được gọi là điều nhỏ nhặt.

Tám điều pāṭidesanīya, bảy mươi hai điều sekhiya, là ba trăm lẻ bốn; các điều học này là của các tỳ khưu ni, được đưa ra đọc tụng trong các lễ Uposatha.

Của các tỳ khưu có bốn mươi sáu điều học không được quy định chung với các tỳ khưu ni, ngươi hãy lắng nghe các điều ấy theo như lời giảng giải.

Sáu điều saṅghādisesa, với hai điều aniya là tám, thêm mười hai điều nissaggiya, chúng với các điều ấy là hai mươi điều.

Hai mươi hai điều nhỏ nhặt, bốn điều pāṭidesanīya, bốn mươi sáu điều này của các tỳ khưu là không được quy định chung với các tỳ khưu ni.

Và của các tỳ khưu ni có một trăm ba mươi điều học không được quy định chung với các tỳ khưu, ngươi hãy lắng nghe các điều ấy theo như lời giảng giải.

Bốn điều pārājika, mười điều lìa hội chúng, mười hai điều nissaggiya, và chín mươi sáu điều nhỏ nhặt, tám điều pāṭidesanīya, một trăm ba mươi điều này của các tỳ khưu ni là không được quy định chung với các tỳ khưu.

Luôn cả một trăm bảy mươi sáu điều là không chung cho cả hai, ngươi hãy lắng nghe các điều ấy theo như lời giảng giải.

Bốn điều pārājika, saṅghādisesa là mười sáu điều, và aniyata là hai điều, nissaggiya hai mươi bốn điều.

Và đúng một trăm mười tám điều được gọi là nhỏ nhặt, mười hai điều pāṭidesanīya, và cả thảy một trăm bảy mươi sáu điều này là không chung cho cả hai.

Một trăm bảy mươi bốn điều là được thực hành bình đẳng đối với cả hai, ngươi hãy lắng nghe các điều ấy theo như lời giảng giải.

Bốn điều pārājika, các điều saṅghādisesa là bảy, các điều nissaggiya là mười tám, đúng bảy mươi điều nhỏ nhặt, bảy mươi lăm điều sekhiya, cả thảy một trăm bảy mươi bốn điều này là được thực hành bình đẳng cho cả hai.

Chính tám điều pārājika là các điều vi phạm xấu xa, tương tợ như gốc cây thốt nốt, như chiếc lá úa vàng, như tảng đá bằng phẳng, như người đàn ông ấy có đầu đã bị chặt lìa, như cây thốt nốt đã bị chặt ngọn, chúng không còn phát triển.

Hai mươi ba điều saṅghādisesa, hai điều aniyata, bốn mươi hai điều nissaggiya, một trăm tám mươi tám điều pācittiya, mười hai điều pāṭidesanīya.

Bảy mươi lăm điều sekhiya, chúng được làm lắng dịu với ba cách dàn xếp: với sự hiện diện, như đã được thừa nhận, và việc dùng cỏ che lấp.

Bậc Chiến Thắng đã giảng giải về hai lễ Uposatha, hai lễ Pavāraṇā, về bốn loại hành sự, và luôn cả năm cách tụng đọc, bốn cách cũng không khác, và các nhóm tội là bảy.

Bốn sự tranh tụng được làm lắng dịu với bảy cách dàn xếp, với hai cách, bốn cách, ba cách, còn nhiệm vự được làm lắng dịu với một cách.

TỘI PĀRĀJIKA, v.v...:

Điều nào được gọi là ‘tội pārājika,’ ngươi hãy lắng nghe điều ấy theo như lời giảng giải. Là kẻ đã bị chết, đã bị thua trận, và đã bị té ngã, bởi vì đã bị khước từ ra khỏi Chánh Pháp, ngay cả việc đồng cộng trú ở nơi ấy cũng không còn, vì thế điều này được gọi như vậy.

Điều nào đã được gọi là ‘tội saṅghādisesa,’ ngươi hãy lắng nghe điều ấy theo như lời giảng giải. Chính hội chúng ban cho hình phạt parivāsa, đưa về lại (hình phạt) ban đầu, ban cho hình phạt mānatta, và giải cho khỏi tội, vì thế điều này được gọi như vậy.

Điều nào đã được gọi là ‘tội aniyata,’ ngươi hãy lắng nghe điều ấy theo như lời giảng giải. Aniyata là không chắc chắn, là điều học không được xác định, là một sự kiện nào đó trong ba, nên được gọi là ‘aniyata.’

Điều nào đã được gọi là ‘tội thullaccaya,’ ngươi hãy lắng nghe điều ấy theo như lời giảng giải. Vị nào khai trình tội ở chân của vị khác, và vị nào ghi nhận điều ấy, do đó sự vi phạm được yên lặng, không còn gây hại cho vị ấy, vì thế điều này được gọi như vậy.

Điều nào đã được gọi là ‘tội nissaggiya,’ ngươi hãy lắng nghe điều ấy theo như lời giảng giải. Ở giữa hội chúng, ở giữa nhóm, đến chỉ mỗi một vị, sau khi xả bỏ rồi sám hối, vì thế điều này được gọi như vậy.

Điều nào đã được gọi là ‘tội pācittiya,’ ngươi hãy lắng nghe điều ấy theo như lời giảng giải. Vị đánh rơi thiện pháp, đối nghịch lại Thánh đạo, có sự mê mờ của tâm, vì thế điều này được gọi như vậy.

Điều nào đã được gọi là ‘tội pāṭidesanīya,’ ngươi hãy lắng nghe điều ấy theo như lời giảng giải. Vị tỳ khưu trong khi không là thân quyến, đối với vật thực của vị ni khó nhọc mới thành đạt, sau khi tự mình nhận lãnh rồi thọ thực, được gọi ‘đáng chê trách.’

Giữa những vị được mời, trong lúc đang thọ thực, nơi ấy có vị tỳ khưu ni hướng dẫn theo ý thích, sau khi không ngăn cản, vị thọ thực ở đó, được gọi ‘đáng chê trách.’

Sau khi đi đến gia đình có tâm tín thành, ít của cải, nghèo, vị (tỳ khưu), không bệnh, thọ thực ở nơi ấy, được gọi ‘đáng chê trách.’

Nếu là vị đang sống ở khu rừng, có sự kinh hoàng, có sự nguy hiểm, không báo cho biết, rồi thọ thực ở nơi ấy, được gọi ‘đáng chê trách.’

Tỳ khưu ni, trong khi không là thân quyến, đối với vật được người khác ưa thích là bơ lỏng, dầu ăn, mật ong, đường mía, cá thịt, rồi luôn cả sữa tươi, và sữa đông, vị tỳ khưu ni yêu cầu vật ấy phạm tội đáng chê trách trong giáo pháp của đức Thiện Thệ.

Điều nào đã được gọi là ‘tội dukkaṭa,’ ngươi hãy lắng nghe điều ấy theo như lời giảng giải. Sự việc đã bị thua trận, đã bị thất bại, và đã bị lỗi lầm là tội dukkaṭa.

Người làm điều ác ấy công khai hoặc là kín đáo, người ta tuyên bố là ‘dukkaṭa,’ vì thế điều này được gọi như vậy.

Điều nào đã được gọi là ‘tội dubbhāsita,’ ngươi hãy lắng nghe điều ấy theo như lời giảng giải. Câu nói nào là ác khẩu, được nói lên sái quấy, và hoàn toàn bị ô nhiễm, và điều nào các bậc tri thức chê trách, vì thế điều này được gọi như vậy.

Điều nào đã được gọi là ‘tội sekhiya,’ ngươi hãy lắng nghe điều ấy theo như lời giảng giải. (Đây) là dành cho vị hữu học, đang còn học tập, đang tiến theo con đường thẳng tắp.

Và sự thực hành này là việc trước tiên, đứng đầu, là sự kiểm soát, và thu thúc, sự học tập như vầy là không có, vì thế điều này được gọi như vậy.

Nước mưa bị văng lại ở vật đã được che đậy, không văng lại ở vật đã được mở ra. Vì thế, hãy mở ra vật đã được che đậy, như vậy, ở vật ấy nước mưa không văng lại.

Núi rừng là cảnh giới của các loài thú vật, không gian là cảnh giới của các loài có cánh, biến hoại là cảnh giới của các pháp (hữu vi), Niết Bàn là cảnh giới của bậc A-la-hán.

Dứt Sưu Tập về Các Bài Kệ.

TÓM LƯỢC PHẦN NÀY:

Ở trong bảy thành phố, điều đã được quy định và bốn sự hư hỏng, các điều quy định chung và riêng của các tỳ khưu và của các tỳ khưu ni, chương ‘Sưu Tập Các Bài Kệ’ này nhằm nâng đỡ giáo pháp.