TỨ PHẦN LUẬT
BA-LA-DI
5. MA XÚC
A. DUYÊN KHỞI
Một thời, đức Phật ở trong vườn Cấp-cô-độc, rừng cây Kỳ-đà, nước Xá-vệ. Bấy giờ, có trưởng giả đại hào quý tên là Đại Thiện Lộc Lạc, tướng mạo đoan chánh. Thâu-la-nan-đà tỳ-kheo-ni nhan sắc cũng xinh đẹp. Ông trưởng giả Lộc Lạc để ý Thâu-la-nan-đà, Thâu-la-nan-đà cũng để ý trưởng giả Lộc Lạc.
Sau đó một thời gian, ông trưởng giả vì Thâu-la-nan-đà nên thỉnh các tỳ-kheo-ni và Thâu-la-nan-đà đến nhà dùng cơm. Đêm ấy chuẩn bị đầy đủ các thức ăn, sáng sớm, đi báo giờ. Thâu-la-nan-đà biết trưởng giả vì mình nên thỉnh Tăng, bèn ở lại chùa không đi.
Đến giờ, các tỳ-kheo-ni khoác y, bưng bát, đến nhà ông trưởng giả. Đến nơi, ngồi vào chỗ ngồi. Khi ấy, ông trưởng giả nhìn khắp ni chúng, không thấy Thâu-la-nan-đà, liền hỏi:
«Thâu-la-nan-đà ở đâu không thấy đến?»
Chư ni đáp:
«Cô ấy ở lại chùa, không đến.»
Ông trưởng giả vội vàng sớt thức ăn xong, liền đến chùa, nơi Thâu-la-nan-đà ở. Thâu-la-nan-đà từ xa thấy ông trưởng giả đến, liền nằm trên giường.
Ông trưởng giả hỏi:
«A-di bệnh khổ thế nào?»
Thâu-la-nan-đà trả lời:
«Không có bệnh khổ chi cả, chỉ có những điều tôi muốn mà ông không muốn thôi.»
Ông trưởng giả nói rằng:
«Tôi muốn chứ chẳng phải không muốn.»
Bấy giờ, ông trưởng giả liền ôm choàng phía trước, đặt nằm xuống, rờ, mò, hôn hít. Xong trưởng giả ngồi lại, hỏi:
«A-di cần thứ gì?»
Thâu-la-nan-đà nói:
«Tôi muốn được táo chua.»
Ông trưởng giả nói:
«Muốn có thứ ấy, sáng mai tôi sẽ đem đến.»
Bấy giờ, có cô sa-di-ni nhỏ giữ phòng, thấy sự việc như vậy. Chư ni thọ thực về, cô kể lại đầy đủ.
Chúng tỳ-kheo-ni nghe, trong đó có vị thiểu dục tri túc, sống hạnh đầu-đà, ưa học giới, biết hổ thẹn, hiềm trách tỳ-kheo-ni Thâu-la-nan-đà rằng: «Sao cô lại làm việc như vậy với ông trưởng giả?»
Các tỳ-kheo-ni bạch với các tỳ-kheo. Các tỳ-kheo bạch lên Phật. Đức Phật liền vì nhơn duyên này tập hợp Tăng tỳ-kheo, dùng vô số phương tiện quở trách tỳ-kheo-ni Thâu-la-nan-đà:
«Việc cô làm là sai quấy, chẳng phải oai nghi, chẳng phải pháp sa-môn, chẳng phải tịnh hạnh, chẳng phải hạnh tùy thuận, làm điều không nên làm. Thâu-la-nan-đà, sao lại cùng với ông trưởng giả làm việc như vậy?»
Đức Thế tôn dùng vô số phương tiện quở trách rồi, bảo các tỳ-kheo:
«Kẻ ngu si tỳ-kheo-ni Thâu-la-nan-đàn này là nơi trồng nhiều giống hữu lậu, là người đầu tiên phạm giới này. Từ nay về sau, Ta vì các tỳ-kheo-ni kiết giới, gồm mười cú nghĩa, cho đến câu chánh pháp cửu trụ.»
Muốn nói giới nên nóii như vầy:
Tỳ-kheo-ni nào, với tâm nhiễm ô, cùng người nam có tâm nhiễm ô, thân xúc chạm nhau từ nách trở xuống, từ đầu gối trở lên; hoặc nắm, hoặc vuốt ve, hoặc kéo, hoặc đẩy, hoặc vuốt lên, hoặc vuốt xuống, hoặc nâng lên, hoặc để xuống, hoặc nắn, hoặc bóp; tỳ-kheo-ni ấy là kẻ ba-la-di, không được sống chung. Vì thân xúc chạm nhau vậy.
B. GIỚI TƯỚNG
Tỳ-kheo-ni: nghĩa như trên.
Tâm ô nhiễm: tâm nhiễm đắm nhau.
Người nam có tâm nhiễm ô, cũng như vậy.
Từ nách trở xuống: Phần thân bên dưới nách.
Từ đầu gối trở lên: Phần thân bên trên đầu gối.
Thân: là từ ngón chân cho đến tóc trên đầu.
Thân xúc chạm nhau: hai thân nắm vuốt nhau, hoặc kéo, hoặc xô, hoặc vuốt ngược, hoặc vuốt xuôi, hoặc nâng lên, hoặc để xuống, hoặc hoặc bóp, hoặc nắn.
—Nắm vuốt: dùng tay vuốt ve phía trước hay phía sau thân.
—Kéo: là kéo ra phía trước.
—Đẩy: là xô ra phía sau.
—Vuốt ngược: Từ dưới rờ lên.
—Vuốt xuôi: từ trên rờ xuống.
—Nâng: là ẳm lên.
—Để xuống: ẳm để xuống, ngồi hay đứng.
—Nắm: nắm phía trước, phía sau, nơi bắp vế, nơi ngực.
—Nắn bóp: nắn phía trước, phía sau, nơi bắp vế, nơi ngực.
Nam tử, tưởng là nam tử; nam tử dùng tay sờ thân cô ni, hai thân xúc chạm nhau, với dục tâm nhiễm đắm, thọ lạc bởi xúc chạm, (tỳ-kheo-ni) phạm ba-la-di. Nam tử, tưởng là nam tử, nam tử dùng tay xoa thân cô ni, động thân với dục tâm nhiễm đắm, thọ lạc bởi xúc chạm, phạm ba-la-di. Cho đến nắn, bóp cũng như vậy.
Là nam tử mà nghi, phạm thâu-lan-giá. Hoặc là nam, khởi tưởng nam. Ni dùng thân xúc chạm y của người kia, đồ trang sức bằng anh lạc, với dục tâm nhiễm đắm, thọ lạc bởi xúc chạm, phạm thâu-lan-giá.
Hoặc nam, khởi tưởng nam. Ni dùng thân xúc chạm y phục, đồ trang sức anh lạc của người kia, với tâm dục nhiễm đắm, không thọ lạc; khi xúc chạm, phạm thâu-lan-giá.
Hoặc là nam, khởi tưởng nam.
Hoặc là nam khởi tưởng nam.
Hoặc là nam, khởi tưởng nam. Ni dùng thân xúc chạm trang cụ bằng anh lạc, y phục nơi thân nam, với dục tâm nhiễm trước, không động thân, thọ lạc khi xúc chạm, phạm thâu-lan-giá.
Hoặc là nam, khởi tưởng nam.
Hoặc là nam, khởi tưởng nam, thân xúc chạm nhau. Ni có dục tâm nhiễm trước, không thọ lạc khi xúc chạm, động thân, phạm thâu-lan-giá.
Cũng vậy, từ vuốt ve cho đến sờ nắn, tất cả đều phạm thâu-lan-giá.
Nghi là nam, phạm đột-kiết-la.
Cũng vậy, cho đến nắm, đẩy, tất cả đều đột-kiết-la.
Đó là nam mà nghi, đột-kiết-la.
Tỳ-kheo-ni cùng với nam tử, hai thân xúc chạm nhau; mỗi xúc chạm là phạm một ba-la-di. Tùy theo sự xúc chạm nhiều hay ít, tất cả đều phạm ba-la-di.
Nếu là nam của loài trời, nam của a-tu-la, cho đến giống đực của súc sanh có thể biến hình, hai thân xúc chạm nhau, đều phạm thâu-lan-giá.
Với súc sanh không thể biến hình, hai thân xúc chạm nhau, đột-kiết-la.
Nếu cùng với người nữ, hai thân xúc chạm nhau, đột-kiết-la.
Nếu cùng với hạng hai hình, hai thân xúc chạm nhau thâu-lan-giá.
Nếu nam nữ tác lễ, mà nắm bàn chân; nếu ni có cảm giác thọ lạc khi xúc, không động thân, đột-kiết-la.
Nếu tỳ-kheo-ni với dục tâm mà xúc chạm y, bát, ni-sư-đàn, ống đựng kim, giày dép, cho đến tự xúc chạm thân của chính mình, tất cả đều đột-kiết-la.
Tỳ-kheo, tăng-già-bà-thi-sa. Thức-xoa-ma-na, sa-di, sa-di-ni, đột-kiết-la. Đó gọi la phạm.
Sự không phạm: Nếu khi đưa hay nhận vật gì, xúc chạm thân; hoặc khi giỡn chơi mà xúc chạm; hoặc khi để cứu giải mà có sự xúc chạm. Tất cả nếu không có tâm dục, đều không phạm.
Người không phạm: người phạm lần đầu tiên khi chưa chế giới; người si cuồng, loạn tâm, thống não bức bách.