TẠNG LUẬT
PHÂN TÍCH GIỚI TỲ KHƯU NI
CHƯƠNG PĀRĀJIKA
5. ĐIỀU PĀRĀJIKA THỨ NHẤT:
Kính lễ đức Thế Tôn, bậc A-la-hán, đấng Chánh Biến Tri!
Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Sāvatthī, Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika. Vào lúc bấy giờ, Sāḷha cháu trai của Migāra có ý định xây dựng trú xá cho hội chúng tỳ khưu ni. Khi ấy, Sāḷha cháu trai của Migāra đã đi đến gặp các tỳ khưu ni và nói điều này:—“Thưa các ni sư, tôi muốn xây dựng trú xá cho hội chúng tỳ khưu ni. Hãy giao cho tôi vị tỳ khưu ni là vị phụ trách công trình mới.” Vào lúc bấy giờ, có bốn chị em đã xuất gia nơi các tỳ khưu ni là: Nandā, Nandavatī, Sundarīnandā, Thullanandā. Trong số các cô ấy, tỳ khưu ni Sundarīnandā đã xuất gia lúc còn trẻ, đẹp dáng, đáng nhìn, khả ái, trí tuệ, kinh nghiệm, thông minh, sắc sảo, cần cù, biết cách suy xét tính toán, có khả năng để xây dựng, có khả năng để hoàn thành công việc ấy. Khi ấy, hội chúng tỳ khưu ni đã chỉ định tỳ khưu ni Sundarīnandā làm vị phụ trách công trình mới rồi đã giao cho Sāḷha cháu trai của Migāra. Vào lúc bấy giờ, tỳ khưu ni Sundarīnandā thường xuyên đi đến nhà của Sāḷha cháu trai của Migāra (nói rằng):—“Hãy bố thí rìu, hãy bố thí búa, hãy bố thí cuốc, hãy bố thí xẻng, hãy bố thí lưỡi đục.” Sāḷha cháu trai của Migāra cũng thường xuyên đi đến chỗ ngụ của các tỳ khưu ni để biết được việc đã làm xong hoặc chưa làm xong. Do sự thường xuyên gặp gỡ, hai người đã sanh tâm quyến luyến. Khi ấy, Sāḷha cháu trai của Migāra trong khi không có được cơ hội để gần gũi thân mật với tỳ khưu ni Sundarīnandā nên đã làm bữa trai phạn dâng hội chúng tỳ khưu ni chính vì mục đích ấy. Khi ấy, Sāḷha cháu trai của Migāra trong khi xếp đặt chỗ ngồi ở nhà ăn (nghĩ rằng): “Chừng này vị tỳ khưu ni là thâm niên hơn ni sư Sundarīnandā” rồi đã sắp xếp chỗ ngồi phía bên này, “Chừng này vị là trẻ hơn” rồi đã sắp xếp chỗ ngồi ở phía bên kia, và đã sắp xếp chỗ ngồi cho tỳ khưu ni Sundarīnandā ở góc tường là nơi đã được che khuất. Như thế, các tỳ khưu ni trưởng lão có thể tin rằng: “Cô ta đang ngồi ở chỗ các tỳ khưu ni mới tu,” còn các tỳ khưu ni mới tu có thể tin rằng: “Cô ta đang ngồi ở chỗ các tỳ khưu ni trưởng lão.”
Sau đó, Sāḷha cháu trai của Migāra đã cho người thông báo thời giờ đến hội chúng tỳ khưu ni rằng:—“Thưa các ni sư, đã đến giờ, bữa ăn đã chuẩn bị xong.” Tỳ khưu ni Sundarīnandā đã xét đoán rằng: “Sāḷha cháu trai của Migāra đã làm bữa trai phạn dâng hội chúng tỳ khưu ni không phải vì phước báu, anh ta có ý muốn gần gũi thân mật với ta; nếu ta đi thì ta sẽ bị mất phẩm giá!” nên đã bảo vị tỳ khưu ni học trò rằng:—“Hãy đi và mang thức ăn về cho ta. Và ai hỏi ta thì cho hay rằng: ‘Cô bị bệnh.’”—“Thưa ni sư, xin vâng,” vị tỳ khưu ni ấy đã trả lời tỳ khưu ni Sundarīnandā.
Vào lúc bấy giờ, Sāḷha cháu trai của Migāra đứng ở bên ngoài cánh cổng ra vào hỏi han về tỳ khưu ni Sundarīnandā rằng:—“Thưa ni sư, ni sư Sundarīnandā ở đâu? Thưa ni sư, ni sư Sundarīnandā ở đâu?” Khi được nói như thế, vị tỳ khưu ni học trò của tỳ khưu ni Sundarīnandā đã nói với Sāḷha cháu trai của Migāra điều này:—“Này đạo hữu, (ni sư) bị bệnh. Tôi sẽ mang thức ăn về.” Khi ấy, Sāḷha cháu trai của Migāra (nghĩ rằng): “Sở dĩ ta đã làm bữa trai phạn nhằm lợi ích cho hội chúng tỳ khưu ni có nguyên nhân là ni sư Sundarīnandā” nên đã ra lệnh cho mọi người rằng: “Hãy dâng bữa trai phạn đến hội chúng tỳ khưu ni,” nói xong đã đi đến chỗ ngụ của các tỳ khưu ni.
Vào lúc bấy giờ, tỳ khưu ni Sundarīnandā đứng ở bên ngoài cổng ra vào tu viện trông ngóng Sāḷha cháu trai của Migāra. Rồi tỳ khưu ni Sundarīnandā đã nhìn thấy Sāḷha cháu trai của Migāra từ đàng xa đang đi lại, sau khi nhìn thấy đã đi vào tu viện trùm y kín đầu rồi nằm xuống ở chiếc giường. Sau đó, Sāḷha cháu trai của Migāra đã đi đến gặp tỳ khưu ni Sundarīnandā, sau khi đến đã nói với tỳ khưu ni Sundarīnandā điều này:—“Thưa ni sư, có phải ni sư không được khoẻ? Sao lại nằm?”—“Này đạo hữu, bởi vì điều ấy là như vậy! Là khi nàng thích chàng mà chàng lại không thích!”—“Thưa ni sư, sao tôi lại không thích ni sư được? Ngặt là tôi không có được cơ hội để gần gũi thân mật với ni sư.” Rồi Sāḷha cháu trai của Migāra nhiễm dục vọng đã thực hiện việc xúc chạm cơ thể với tỳ khưu ni Sundarīnandā nhiễm dục vọng.
Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu ni nọ yếu đuối già cả bị bệnh ở bàn chân đang nằm không xa tỳ khưu ni Sundarīnandā. Vị tỳ khưu ni ấy đã nhìn thấy Sāḷha cháu trai của Migāra nhiễm dục vọng đang thực hiện việc xúc chạm cơ thể với tỳ khưu ni Sundarīnandā nhiễm dục vọng, sau khi thấy mới phàn nàn phê phán chê bai rằng:—“Vì sao ni sư Sundarīnandā nhiễm dục vọng lại ưng thuận việc xúc chạm cơ thể của người nam nhiễm dục vọng?”
Sau đó, vị tỳ khưu ni ấy đã kể lại sự việc ấy cho các tỳ khưu ni. Các tỳ khưu ni nào ít ham muốn, tự biết đủ, khiêm tốn, có hối hận, ưa thích sự học tập, các vị ni ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:—“Vì sao ni sư Sundarīnandā nhiễm dục vọng lại ưng thuận việc xúc chạm cơ thể của người nam nhiễm dục vọng?” Sau đó, các tỳ khưu ni ấy đã kể lại sự việc ấy cho các tỳ khưu. Các vị tỳ khưu nào ít ham muốn, tự biết đủ, khiêm tốn, có hối hận, ưa thích sự học tập, các vị ấy phàn nàn phê phán chê bai rằng:—“Vì sao tỳ khưu ni Sundarīnandā nhiễm dục vọng lại ưng thuận việc xúc chạm cơ thể của người nam nhiễm dục vọng?” Sau đó, các vị tỳ khưu ấy đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
Khi ấy, đức Thế Tôn nhân lý do ấy nhân sự kiện ấy đã triệu tập hội chúng tỳ khưu lại và đã hỏi các tỳ khưu rằng:—“Này các tỳ khưu, nghe nói tỳ khưu ni Sundarīnandā nhiễm dục vọng ưng thuận việc xúc chạm cơ thể của người nam nhiễm dục vọng, có đúng không vậy?”—“Bạch Thế Tôn, đúng vậy.” Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng: … (như trên) … Này các tỳ khưu, thật không đúng đắn đối với tỳ khưu ni Sundarīnandā, thật không hợp lẽ, không tốt đẹp, không xứng pháp Sa-môn, không được phép, không nên làm! Này các tỳ khưu, vì sao tỳ khưu ni Sundarīnandā nhiễm dục vọng lại ưng thuận việc xúc chạm cơ thể của người nam nhiễm dục vọng vậy? Này các tỳ khưu, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, hay làm tăng thêm niềm tin của những người đã có đức tin. Này các tỳ khưu, hơn nữa chính sự việc này đem lại sự không có niềm tin ở những kẻ chưa có đức tin và làm thay đổi (niềm tin) của một số người đã có đức tin.” Sau đó, khi đã khiển trách tỳ khưu ni Sundarīnandā bằng nhiều phương thức, đức Thế Tôn đã chê trách về sự khó khăn trong việc cấp dưỡng, sự khó khăn trong việc ăn uống, sự tầm cầu quá nhiều, sự không biết đủ, sự kết phe nhóm, sự biếng nhác; và bằng nhiều phương thức Ngài đã ngợi khen về sự dễ dàng trong việc cấp dưỡng, sự dễ dàng trong việc ăn uống, sự ít tầm cầu, sự biết đủ, sự từ khước, sự tiết chế, sự hòa nhã, sự đoạn giảm, sự ra sức nỗ lực. Ngài đã thuyết Pháp thích đáng và phù hợp cho các tỳ khưu rồi đã bảo các tỳ khưu rằng:
—“Này các tỳ khưu, như thế thì ta sẽ quy định điều học cho các tỳ khưu ni vì mười điều lợi ích: Nhằm đem lại sự tốt đẹp cho hội chúng, nhằm đem lại sự an lạc cho hội chúng, nhằm việc trấn áp những tỳ khưu ni ác xấu, nhằm sự lạc trú của các tỳ khưu ni hiền thiện, nhằm ngăn ngừa các lậu hoặc trong hiện tại, nhằm sự trừ diệt các lậu hoặc trong tương lai, nhằm đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, nhằm tăng thêm niềm tin của những người đã có đức tin, nhằm sự tồn tại của Chánh Pháp, và nhằm sự hỗ trợ Luật. Và này các tỳ khưu, các tỳ khưu ni hãy phổ biến điều học này như vầy:
“Vị tỳ khưu ni nào nhiễm dục vọng ưng thuận sự sờ vào hoặc sự vuốt ve hoặc sự nắm lấy hoặc sự chạm vào hoặc sự ôm chặt của người nam nhiễm dục vọng từ xương đòn (ở cổ) trở xuống từ đầu gối trở lên, vị ni này cũng là vị phạm tội pārājika, không được cộng trú, là người nữ có liên quan đến phần trên đầu gối.”
Vị ni nào: là bất cứ vị ni nào có mối quan hệ như vầy, có giai cấp như vầy, có tên như vầy, có họ như vầy, có giới hạnh như vầy, có trú xứ như vầy, có hành xứ như vầy, là vị trưởng lão ni (trên mười năm ), mới tu (dưới năm năm), hoặc trung niên (trên năm năm); vị ni ấy được gọi là ‘vị ni nào.’
Tỳ khưu ni: ‘Người nữ đi khất thực’ là tỳ khưu ni. ‘Người nữ chấp nhận việc đi khất thực’ là tỳ khưu ni. ‘Người nữ mặc y đã được cắt rời’ là tỳ khưu ni. Là tỳ khưu ni do sự thừa nhận. Là tỳ khưu ni do tự mình xác nhận. Là tỳ khưu ni khi được (đức Phật) nói rằng: ‘Này tỳ khưu ni, hãy đi đến.’ ‘Người nữ đã tu lên bậc trên bằng Tam Quy’ là tỳ khưu ni. ‘Người nữ hiền thiện’ là tỳ khưu ni. ‘Người nữ có thực chất’ là tỳ khưu ni. ‘Người nữ Thánh hữu học’ là tỳ khưu ni. ‘Người nữ Thánh vô học’ là tỳ khưu ni. ‘Người nữ đã được tu lên bậc trên bằng hành sự có lời thông báo đến lần thứ tư không sai sót, đáng được duy trì với cả hai hội chúng có sự hợp nhất’ là tỳ khưu ni. Ở đây, vị tỳ khưu ni đã được tu lên bậc trên bằng hành sự có lời thông báo đến lần thứ tư không sai sót, đáng được duy trì với cả hai hội chúng có sự hợp nhất, vị ni này là ‘vị tỳ khưu ni’ được đề cập trong ý nghĩa này.
(Nữ) nhiễm dục vọng nghĩa là người nữ có dục vọng, có sự khao khát, có tâm quyến luyến.
(Nam) nhiễm dục vọng nghĩa là người nam có dục vọng, có sự khao khát, có tâm quyến luyến.
Người nam nghĩa là nam nhân loại, không phải Dạ-xoa nam, không phải ma nam, không phải thú đực, có trí suy xét, có khả năng thực hiện việc xúc chạm cơ thể.
Từ xương đòn (ở cổ) trở xuống: là phía dưới xương đòn (ở cổ).
Từ đầu gối trở lên là phía trên đầu gối.
Sự sờ vào nghĩa là việc được cọ xát vào.
Sự vuốt ve nghĩa là sự di chuyển từ chỗ này qua chỗ khác.
Sự nắm lấy nghĩa là việc được nắm lấy.
Sự chạm vào nghĩa là việc được đụng vào.
Hoặc ưng thuận sự ôm chặt: sau khi nắm lấy phần thân thể rồi ưng thuận việc ôm chặt vào.
Vị ni này cũng: được đề cập có liên quan đến các vị ni trước đây.
Là vị phạm tội pārājika: cũng giống như người đàn ông bị chặt đứt đầu không thể sống bám víu vào thân thể ấy; tương tợ như thế, vị tỳ khưu ni nhiễm dục vọng ưng thuận sự sờ vào hoặc sự vuốt ve hoặc sự nắm lấy hoặc sự chạm vào hoặc sự ôm chặt của người nam nhiễm dục vọng từ xương đòn (ở cổ) trở xuống từ đầu gối trở lên thì không còn là nữ Sa-môn, không phải là Thích nữ; vì thế được gọi ‘là vị phạm tội pārājika.’
Không được cộng trú: Sự cộng trú nghĩa là có chung hành sự, có chung việc đọc tụng (giới bổn Pātimokkha), có sự học tập giống nhau, điều ấy gọi là sự cộng trú. Vị ni ấy không có được điều ấy, vì thế được gọi là ‘không được cộng trú.’
Trường hợp bị nhiễm dục vọng cả hai, vị dùng thân sờ vào thân (đối tượng) từ xương đòn (ở cổ) trở xuống từ đầu gối trở lên thì phạm tội pārājika. Vị dùng thân sờ vào vật được gắn liền với thân (đối tượng) thì phạm tội thullaccaya. Vị dùng vật được gắn liền với thân sờ vào thân (đối tượng) thì phạm tội thullaccaya. Vị dùng vật được gắn liền với thân sờ vào vật được gắn liền với thân (đối tượng) thì phạm tội dukkaṭa. Vị sờ vào thân (đối tượng) bằng vật ném ra thì phạm tội dukkaṭa. Vị sờ vào vật được gắn liền với (đối tượng) bằng vật ném ra thì phạm tội dukkaṭa. Vị sờ vào vật (đối tượng) ném ra bằng vật ném ra thì phạm tội dukkaṭa. Vị dùng thân sờ vào thân (đối tượng) từ xương đòn (ở cổ) trở lên từ đầu gối trở xuống thì phạm tội thullaccaya. Vị dùng thân sờ vào vật được gắn liền với thân (đối tượng) thì phạm tội dukkaṭa. Vị dùng vật được gắn liền với thân sờ vào thân (đối tượng) thì phạm tội dukkaṭa. Vị dùng vật được gắn liền với thân sờ vào vật được gắn liền với thân (đối tượng) thì phạm tội dukkaṭa. Vị sờ vào thân (đối tượng) bằng vật ném ra thì phạm tội dukkaṭa. Vị sờ vào vật được gắn liền với thân (đối tượng) bằng vật ném ra thì phạm tội dukkaṭa. Vị sờ vào vật (đối tượng) ném ra bằng vật ném ra thì phạm tội dukkaṭa.
Trường hợp bị nhiễm dục vọng một phía, vị dùng thân sờ vào thân (đối tượng) từ xương đòn (ở cổ) trở xuống từ đầu gối trở lên thì phạm tội thullaccaya. Vị dùng thân sờ vào vật được gắn liền với thân (đối tượng) thì phạm tội dukkaṭa. Vị dùng vật được gắn liền với thân sờ vào thân (đối tượng) thì phạm tội dukkaṭa. Vị dùng vật được gắn liền với thân sờ vào vật được gắn liền với thân (đối tượng) thì phạm tội dukkaṭa. Vị sờ vào thân (đối tượng) bằng vật ném ra thì phạm tội dukkaṭa. Vị sờ vào vật được gắn liền với thân (đối tượng) bằng vật ném ra thì phạm tội dukkaṭa. Vị sờ vào vật (đối tượng) ném ra bằng vật ném ra thì phạm tội dukkaṭa. Vị dùng thân sờ vào thân (đối tượng) từ xương đòn (ở cổ) trở lên từ đầu gối trở xuống thì phạm tội dukkaṭa. Vị dùng thân sờ vào vật được gắn liền với thân (đối tượng) thì phạm tội dukkaṭa. Vị dùng vật được gắn liền với thân sờ vào thân (đối tượng) thì phạm tội dukkaṭa. Vị dùng vật được gắn liền với thân sờ vào vật được gắn liền với thân (đối tượng) thì phạm tội dukkaṭa. Vị sờ vào thân (đối tượng) bằng vật ném ra thì phạm tội dukkaṭa. Vị sờ vào vật được gắn liền với thân (đối tượng) bằng vật ném ra thì phạm tội dukkaṭa. Vị sờ vào vật (đối tượng) ném ra bằng vật ném ra thì phạm tội dukkaṭa.
Trường hợp bị nhiễm dục vọng cả hai, đối với Dạ-xoa nam hoặc ma nam hoặc thú đực, vị dùng thân sờ vào thân (đối tượng) từ xương đòn (ở cổ) trở xuống từ đầu gối trở lên, thì phạm tội thullaccaya. Vị dùng thân sờ vào vật được gắn liền với thân (đối tượng) thì phạm tội dukkaṭa. Vị dùng vật được gắn liền với thân sờ vào thân (đối tượng) thì phạm tội dukkaṭa. Vị dùng vật được gắn liền với thân sờ vào vật được gắn liền với thân (đối tượng) thì phạm tội dukkaṭa. Vị sờ vào thân (đối tượng) bằng vật ném ra thì phạm tội dukkaṭa. Vị sờ vào vật được gắn liền với thân (đối tượng) bằng vật ném ra thì phạm tội dukkaṭa. Vị sờ vào vật (đối tượng) ném ra bằng vật ném ra thì phạm tội dukkaṭa. Vị dùng thân sờ vào thân (đối tượng) từ xương đòn (ở cổ) trở lên từ đầu gối trở xuống thì phạm tội dukkaṭa. Vị dùng thân sờ vào vật được gắn liền với thân (đối tượng) thì phạm tội dukkaṭa. Vị dùng vật được gắn liền với thân sờ vào thân (đối tượng) thì phạm tội dukkaṭa. Vị dùng vật được gắn liền với thân sờ vào vật được gắn liền với thân (đối tượng) thì phạm tội dukkaṭa. Vị sờ vào thân (đối tượng) bằng vật ném ra thì phạm tội dukkaṭa. Vị sờ vào vật được gắn liền với thân (đối tượng) bằng vật ném ra thì phạm tội dukkaṭa. Vị sờ vào vật (đối tượng) ném ra bằng vật ném ra thì phạm tội dukkaṭa.
Trường hợp bị nhiễm dục vọng một phía, vị dùng thân sờ vào thân (đối tượng) từ xương đòn (ở cổ) trở xuống từ đầu gối trở lên thì phạm tội dukkaṭa. Vị dùng thân sờ vào vật được gắn liền với thân (đối tượng) thì phạm tội dukkaṭa. Vị dùng vật được gắn liền với thân sờ vào thân (đối tượng) thì phạm tội dukkaṭa. Vị dùng vật được gắn liền với thân sờ vào vật được gắn liền với thân (đối tượng) thì phạm tội dukkaṭa. Vị sờ vào thân (đối tượng) bằng vật ném ra thì phạm tội dukkaṭa. Vị sờ vào vật được gắn liền với thân (đối tượng) bằng vật ném ra thì phạm tội dukkaṭa. Vị sờ vào vật (đối tượng) ném ra bằng vật ném ra thì phạm tội dukkaṭa. Vị dùng thân sờ vào thân (đối tượng) từ xương đòn (ở cổ) trở lên từ đầu gối trở xuống thì phạm tội dukkaṭa. Vị dùng thân sờ vào vật được gắn liền với thân (đối tượng) thì phạm tội dukkaṭa. Vị dùng vật được gắn liền với thân sờ vào thân (đối tượng) thì phạm tội dukkaṭa. Vị dùng vật được gắn liền với thân sờ vào vật được gắn liền với thân (đối tượng) thì phạm tội dukkaṭa. Vị sờ vào thân (đối tượng) bằng vật ném ra thì phạm tội dukkaṭa. Vị sờ vào vật được gắn liền với thân (đối tượng) bằng vật ném ra thì phạm tội dukkaṭa. Vị sờ vào vật (đối tượng) ném ra bằng vật ném ra thì phạm tội dukkaṭa.
Không cố ý, vị ni thất niệm, vị ni không hay biết, vị ni không ưng thuận, vị ni bị điên, vị ni có tâm bị rối loạn, vị ni bị thọ khổ hành hạ, vị ni vi phạm đầu tiên thì vô tội.”
Dứt điều pārājika thứ nhất.